Vietnamdefence.com

 

Điệp viên thế kỷ XX: Thêm đôi điều về Blake

VietnamDefence - Con người này đã phá hoại hầu như tất cả những gì mà các cơ quan tình báo Anh tạo dựng được từ sau Thế chiến II, vị quan toà Anh buộc tội George Blake.

Cụ George Blake ở tuổi 90 tại nhà nghỉ của mình ở Kratovo, tháng 10.2012

“Con người này đã phá hoại hầu như tất cả những gì mà các cơ quan tình báo Anh tạo dựng được từ sau Thế chiến II”. Vị quan toà Anh trong vụ án George Blake, người bị buộc tội làm gián điệp cho Liên Xô, đã kết luận như vậy. Riêng các biên bản của phiên toà chấn động này ở London cũng phải có đến mấy tập.

Theo dự đoán của một người am hiểu hoạt động của các cơ quan tình báo, nhà văn Philippe Nightley, tình báo viên Liên Xô George Blake đã lập được hai thành tích đặc biệt là kịp thời phát hiện đường hầm gián điệp ở Berlin và chiến dịch tung tin giả quy mô lớn với mật danh Boris.

Đến giờ thì người ta đã biết hầu như tất cả về việc khám phá ra đường hầm cho phép nghe lén lâu dài các đường liên lạc bí mật của Liên Xô và CHDC Đức. Nhưng về vụ Boris, G. Blake, trong cuốn sách “Không còn lựa chọn nào khác” đã có kể lại đôi chút, vụn vặt bởi vì lúc đó thì việc nêu tên thật của người mà ở khắp nơi người ta chỉ đề cập đến dưới bí danh được xem như là không thể được xét từ giác độ nghề nghiệp và đạo đức. Hơn nữa, theo P. Nightley, chỉ có bậc thầy về cờ của Nga mới có thể có thể nghĩ ra một kế hoạch phối hợp tuyệt hảo đến thế để Blake thực hiện với sự tham gia của Boris.

Bản chất của kế hoạch đó có vẻ là rất đơn giản: do việc liên lạc với tình báo biên được thực hiện theo phương thức truyền thống thông qua các cuộc gặp cực kỳ bí mật với các sĩ quan hoạt động của KGB, tại Moskva, ngay tại thượng đỉnh của kim tự tháp tình báo, nên người ta đã quyết định áp dụng chiến thuật mới và để cho G. Blake gặp gỡ một đối tác Xôviết mà ông có thể gặp công khai và tất nhiên đã được sự đồng ý của Secret Intelligence Service (SIS). Khó khăn lớn nhất của ý đồ khác thường này là ở chỗ làm sao để người thường xuyên liên lạc với Blake không phải là nhân viên tình báo chuyên nghiệp của KGB và có thể vượt qua được khâu kiểm tra để phát hiện mối liên hệ với cơ quan an ninh quốc gia Liên Xô. Ngoài ra, phải chọn người đó trong số các chuyên gia ngoại giao trẻ, mưu trí, quảng giao, cực kỳ giỏi ngoại ngữ. Nội dung làm việc với Boris được tách riêng trong nhiệm vụ tình báo của G. Blake, không được dính với công việc được thực hiện thông qua những liên lạc viên bình thường khác và được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Việc tiến dẫn Boris tới G. Blake trong điều kiện biên giới mở và tự do đi lại khi đó giữa cư dân hai thế giới tại thành phố Berlin bị chia cắt không gặp khó khăn gì, mặc dù cũng phải huy động những người trung gian không cần thiết là thương gia Đức Micki và vợ ông ta. Sau này, cặp vợ chồng này còn liên hệ không chỉ với KGB mà cả với tình báo quân sự Liên Xô GRU và giúp tình báo Anh tố giác G. Blake.

Vậy là việc cài cắm đã thành công và kênh liên lạc thông qua Boris của G. Blake đã hoạt động thành công và hiệu quả trong 5 năm sau đó. Anh ấy phải hoạt động hai mặt. Anh ta thường xuyên cung cấp cho London những thông tin khá tốt. “Đây là một thành công lớn - G. Blake viết. - Tôi đã là nhân viên SIS duy nhất có trong tay một người Nga thực sự, bằng xương bằng thịt”. Còn những tin tức quý giá đi theo hướng ngược lại, trong đó có tin tức về tình trạng, tâm trạng, lĩnh vực quan tâm của chính G. Blake, thì lại có tác dụng yểm trợ, giúp đỡ anh ấy bằng cách thể hiện phô trương là “bàn tay của Moskva” đang hiện diện ở khắp nơi.

***

G. Blake (từ đây về sau, thông tin được trích từ cuốn sách “Không còn lựa chọn nào khác” - TG). Người Nga ấy nói rất thạo tiếng Đức và anh ta nói với chúng tôi rằng, anh ta tên là Boris, là nhà kinh tế học và làm việc tại cơ quan kinh tế Liên Xô tại Đông Berlin. Tôi đã vô tình buột miệng nói là tôi nói được tiếng Nga chút ít và chúng tôi lập tức chuyển sang nói bằng ngôn ngữ này. Trong buổi chiều ấy, tôi tự giới thiệu tên là de Wris, nhà báo Hà Lan, làm phóng viên cho một trong những tờ báo Berlin.

Vs. Sovva. Mùa hè năm 1956, chỉ huy tình báo của ta (Liên Xô) tại Đức bất ngờ mời tôi đến gặp, khi đó tôi tuy mới bắt đầu làm phiên dịch cho đại diện kinh tế Liên Xô ở Berlin nhưng tôi đã đảm nhiệm khá tốt nhiệm vụ này (tôi đã làm việc với A.N. Kosygin, A.I. Mikoyan, V.A. Malyshev).

Người chỉ huy đó là trung tướng KGB Aleksandr Mikhailovich Korotkov, chính là “vị tuỳ viên Sasha”, người mà sau khi chiến tranh bùng nổ vào những ngày tháng 6 năm 1941, đã vượt qua vòng vây phong toả sứ quán Liên Xô ở Unter-den-Linden và thiết lập được kênh liên lạc điện đài vốn cực kỳ cần thiết với Moskva.

Cuộc tiếp xúc với người sĩ quan Cheka không biết cười ấy rất ngắn gọn và cực kỳ rõ ràng. “Chúng tôi mong muốn - Aleksandr Mikhailovich Korotkov nói - làm thế nào để đưa được nhà báo Hà Lan Maks de Wris lọt được vào giới bạn bè nước ngoài của anh. Địa điểm liên lạc thường xuyên - Tây Berlin. Các cuộc nói chuyện là theo các chủ đề tự do bằng tiếng Đức, cũng như tiếng Nga. Nói thật đôi chút về công việc, khi đó hãy tạm quên nội dung thông tin mật mà anh có quyền tiếp cận đi”.

Khi chia tay, Korotkov dường như vô tình bổ sung thêm là trong mọi hoàn cảnh không được vào vai một nhân viên tình báo, nhưng tai thì lúc nào cũng phải dỏng lên.

Thực tế là chính từ đây bắt đầu việc tiếp cận của tôi với G. Blake.

... Trong một lần đến một quận nghèo ở Tây Berlin, nơi các công dân Liên Xô thường đến mua bán, đã diễn ra phiên liên lạc đầu tiên của chúng tôi. Quang cảnh khá phù hợp: một quán bia bình thường ồn ào đầy những giọng nói lè nhè và đặc sệt khói thuốc lá.

G. B. Boris nói thoải mái hơn về công việc của mình, anh ta kể anh ta đến Đức với tư cách phiên dịch viên chính theo đường khối SEV (Hội đồng Tương trợ Kinh tế - ND) và có nhiệm vụ phục vụ các cuộc đàm phán ở cấp cao nhất giữa Liên Xô và CHDC Đức và tháp tùng các đoàn đại biểu Liên Xô.

V. S. George là con người tính tình cởi mở, hiền lành có giọng nói nhỏ nhẹ, thong thả, một chuyên gia tâm lý siêu hạng (một nét đặc điểm của tình báo viên đáng ngại đối với người đối thoại!). Câu chuyện của chúng tôi luôn thoải mái và tôi dần cảm thấy kính trọng và thiện cảm với anh ấy. Điểm cao trào trong quan hệ mới được thiết lập giữa chúng tôi là lúc chúng tôi đi trên chiếc Wolkswagen của anh ấy, chúng tôi đã vui vẻ cất tiếng gào hết cỡ bài “Chiều Moskva”, tuy không được đều cho lắm. Mà lại là giữa trung tâm Tây Berlin chứ! Nhưng dù sao thì vẫn trên phố thuộc khu kiểm soát của Anh. Tôi thiết tưởng chả ai ở Moskva lẫn London biết được giây phút vui vẻ bốc đồng này của chúng tôi.

Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc thì phải biết là Blake già hơn tôi cả chục tuổi, anh ấy khi đó đang ở đỉnh cao sung sức. Khi trò chuyện, anh ấy luôn thể hiện mối quan tâm mang tính “nhà báo” và tập trung chú ý vào những xu hướng chính và triển vọng tình hình quốc tế. Các ý kiến trao đổi thường xoay quanh vấn đề khối SEV, hợp tác kinh tế Liên Xô với CHDC Đức.

Bây giờ, khi phân tích lại tình hình và những sự kiện thời đó, tôi nghĩ là khi đó, phương Tây đang chịu một nạn đói thông tin thực sự. Phương Tây quan tâm chú ý tới bất kỳ chi tiết nào về tình hình của một xã hội xã hội chủ nghĩa khi đó còn đóng kín như bưng. Những cách triết giải của tôi, như bây giờ người ta thường nói, chính là một thứ tóm tin cho G. Blake và giúp cho anh ấy định hướng được trong bối cảnh khó khăn của vấn đề tìm hiểu Liên Xô thời đó. Tôi có thể cam đoan là nhiều cuộc nói chuyện của tôi với G. Blake đã bị ghi âm. Những tài liệu mà SIS thường xuyên nhận được không gợi lên ở họ mối nghi ngờ nào.

Còn ngày nay, trên báo chí phương Tây, tôi lại bắt gặp những lời khẳng định là Boris dường như đã chủ định đánh lừa London (nghĩa là lừa cả Washington) và điều đó đã làm cho giới lãnh đạo phương Tây đưa ra những nhận đấnh giá quá lạc quan, tức là những đánh giá sai, về tiềm lực kinh tế Liên Xô.

Tôi hoàn toàn chắc chắn khi nhấn mạnh: đã không có một nhiệm vụ như vậy, đơn thuần là không thể có vì bấy kỳ mưu toan nào như vậy đều khiến người ta nghi ngờ hiệu quả làm việc của G. Blake - người vốn là một trong những nhân viên chủ chốt của cơ quan tình báo Anh.

Tuy vậy, rõ ràng là có những dích dắc khó thể lường trước trong đường lối đối nội và đối ngoại của Liên Xô, nhất là dưới thời N.S. Khrushchev, và chính chúng cũng đã làm té ngửa nhiều nhà phân tích nước ngoài mà điều đó thì dĩ nhiên là cả G. Blake lẫn tôi đều không chịu trách nhiệm. Đây cũng chính là một ví dụ điển hình cho cái mà người ta nói - đó là hoàn cảnh mạnh hơn con người.

G. B. Tin tức tình báo do anh ấy thu được bằng cách đó chủ yếu mang tính kinh tế, mặc dù đôi khi cũng mang tính chính trị và đã được hồ hởi tiếp nhận ở London. Tổng cục rất hài lòng và cho là Boris hứa hẹn nhiều triển vọng, đáng để quan tâm đặc biệt. Mặc dù anh ấy vẫn còn chưa phải là “người của ta” trong Kremlin, nhưng mọi sự đã nói lên rằng anh ấy có thể trở thành như vậy. Không ai tỏ ra nghi ngờ về vai trò phiên dịch viên phục vụ các cuộc đàm phán thượng đỉnh của anh ta. Thi thoảng, London giao cho tôi những nhiệm vụ đặc biệt liên quan đến một số vấn đề thời sự thì hầu như lần nào Boris cũng trở về với tin tức cần có.

V. S. Các nguyên tắc làm việc mà Moskva đặt ra đã được tuân thủ một cách nghiêm túc: không thông tin mật nào bị rò rỉ ra nước ngoài. Điều đó không nói lên chất lượng tin tức được cung cấp vì G. Blake là một bậc thầy trong việc mông má đánh bóng bất kỳ một mẩu tin nào, dù là rất vụn vặt.

Nói chung thì tôi khá hài lòng với lời khen ngợi của đối phương vì dầu sao thì tôi đã cố gắng không phải vô ích. Chẳng hạn, cũng chính P. Nightley khẳng định rằng: chiến dịch “Boris” đã cho phép KGB “áp đặt cho tình báo phương Tây một lối tư duy mà nó (KGB) muốn và đã không bị khám phá trong một thời gian dài đến mức những thông tin mà SIS nhận được đã ăn sâu bám chắc vào hoạt động hàng ngày của cơ quan đặc vụ Anh, làm cho hoạt động ấy bị sai lệch và vô hiệu hoá.

Tại đại bản doanh của SIS ở London, người ta đã không nhầm khi đoán trước là tôi sẽ có quá trình công tác ổn định.

Trong những năm sau đó, tôi thăng tiến xuôn xẻ từ một phiên dịch viên tới đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô, có thêm bằng đại học về ngoại giao và kinh tế. Sau đó, tôi giữ những cương vị cao tại nhiều cơ quan trung ương, trong đó có Trung ương ĐCS Liên Xô và Bộ Ngoại giao Liên Xô. Phải sau tháng 8 năm 1991, tôi mới có dịp làm quen với các hành lang đầy quyền lực ở Kremlin, ở chính toà nhà và tầng nhà mà bây giờ là chỗ ở của của tổng thống Nga.
G.B. Mùa hè năm 1985, tôi cùng gia đình nghỉ phép ở CHDC Đức và chúng tôi đã ở Berlin mấy ngày. ở đó, người ta hỏi tôi liệu có muốn gặp lại người quen cũ không. Tất nhiên là tôi đồng ý và nghĩ mãi xem người đó là ai. Ngày hôm sau, điều thật sửng sốt với tôi là Boris đã xuất hiện trong ngôi nhà chúng tôi đang ở. Thời gian đã làm cả hai chúng tôi thay đổi nhưng chúng tôi vẫn nhận ra nhau ngay. Ông ấy đã lên đến cương vị cao trong Bộ Ngoại giao Liên Xô và đang có chuyến thăm chính thức tới Berlin.

V.S. Đây là trường hợp hiếm hoi khi trí nhớ đã phản lại George. Mùa hè năm 1975 (chứ không phải là năm 1985), khi Blake có mặt tại Berlin để gặp người mẹ, V.I. Sovva là đại biện lâm thời của Liên Xô tại CHDC Đức (thay cho vị đại sứ Liên Xô đi nghỉ phép) đã gọi điện cho người bạn tốt Misha, Markus Wolf - thứ trưởng Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức để xin được ghé thăm biệt thự mật của Stasi.

Tiếp đó, mọi chuyện xảy ra cứ như trong phim về điệp viên 007 James Bond. Chiếc xe ZIL đen treo quốc kỳ Liên Xô đỏ chói lăn bánh tới ngôi biệt thự đơn độc, được canh giữ cẩn mật. Hai người không còn trẻ nữa, George và Volodya - anh ấy thường gọi tôi như thế - đã ôm chặt lấy nhau ngay bên cửa con của hàng rào.

Tôi tiếc là không có cơ hội chụp bức ảnh hy hữu này để tặng cho tình báo Anh làm kỷ niệm.

G.B. Bây giờ thì đã hoàn toàn rõ là chuyên gia phản gián Shergold vẫn tiếp tục công việc khi đã biết rõ Micky là điệp viên Xôviết, còn Boris - nhân viên người Nga ở khối SEV, cũng là “con vịt mồi thả thêm” nốt. Tôi biết giải thích thế nào nhỉ? Tôi đồng ý là xét một cách toàn diện thì Boris đã làm gián điệp ở sau lưng chúng tôi, chỉ có thể lý giải điều đó là người ta đã sử dụng Micky làm đối tượng thích hợp nhất.

V.S. Cho đến nay những bối cảnh dẫn đến sự bại lộ của George Blake vẫn chưa rõ ràng. Việc bắt giữ anh ấy không có cái vẻ kịch tính, mà giống như một sự thú nhận với một nhóm nhỏ các đồng sự. Người bạn tốt của anh ấy là Harry Shergold, chuyên viên chính của SIS về vấn đề Liên Xô, đã nói thẳng với G. Blake rằng, vụ bắt giữ thương gia Đức Micky (do bị người vợ ghen tuông tố giác) đã cho phép phán đoán Boris là người của Moskva.

George và tôi trong nhiều lần gặp nhau vào những năm sau này đã không bao giờ đi sâu vào chủ đề tế nhị này.

Nhưng dù cho không phải là người trong nghề, tôi vẫn hiểu rằng tình báo viên bị phát giác phải bằng mọi cách đánh lạc hướng chú ý của điều tra và toà khỏi hướng hoạt động bí mật chính của mình, thậm chí phải khai cho họ những người thứ yếu. Rõ ràng là chính điều đó đã xảy ra.

Tôi tuyệt đối không quan tâm là tôi đã đi vào những hồ sơ của vụ án xử Blake với vai trò gì. Mặc dù chính vì vậy mà chính tôi đã trở thành đối tượng điều tra của SIS.

Theo chuyên môn đào tạo chính, tôi là luật gia. Tôi không nghi ngờ cơ sở pháp lý của phán quyết quá nghiêm khắc của toà án Old Bailey (3 tội 14 năm, tổng hình phạt là 42 năm tù giam đối với G. Blake). Về mặt con người, tôi thực sự vui mừng khi biết rằng, Nữ thần Công lý Themis trong trường hợp khác thường này cuối cùng đã né sang một bên. Chính George đã tự xác định sẽ phải ngồi tù cho đến hết án (thực tế đã ngồi tù gần 6 năm), nên ngay khi có cơ hội đầu tiên, đã chạy trốn khỏi nước Anh cổ kính tốt bụng. Và là mãi mãi. Tôi coi kết cục đầy kịch tích của một sự kiện có một không hai này là thắng lợi của công lý tối cao (nhất là khi Blake là một con chiên vô cùng sùng tín).

Nhà tình báo lỗi lạc của thời đại đã đi vào cuộc đời tôi như một hình tượng mẫu mực cho sự kiên cường, bình tĩnh, tự tin và quang minh chính đại. Cũng chính ông chứ không phải ai khác trong số những người liên quan đến điệp vụ, đã nói với tôi là anh lo lắng, bất an vì biết rõ mức độ mạo hiểm cao khi dấn thân vào vụ Boris và nhẹ nhàng bổ sung là người ta có thể còn tranh cãi cả về tính hợp lý của việc tuyển mộ với toàn bộ những hậu quả không lường trước được.

Tôi cho rằng dù sao mình cũng may mắn khi trở thành người bạn tranh luận (tuy không như nhau, nhưng vững chắc trong suốt quãng thời gian dành cho chúng tôi) của G. Blake tại bước ngoặt đột biến trong cuộc đời anh ấy.
Tôi nói lên điều đó với lương tâm trong sạch vì Boris chẳng hề nhận được bất cứ sự ưu tiên, khen thưởng nào của nhà nước và cũng không muốn điều đó. Hơn nữa, các thủ trưởng khác nhau của tôi ở những bộ, ngành khác nhau sẽ chẳng vui vẻ gì nếu như khi đó họ biết là anh nhân viên nhanh nhẹn dưới quyền họ có dính dáng đến một trong những vụ án gián điệp ầm ĩ nhất.

Trong những lần công tác ở nước ngoài, tôi phải bỏ qua London. Mới đây SIS đã thể hiện khả năng nhớ và thù dai về những nhục nhã của mình bằng việc bắt giữ tuy ngắn, nhưng có tính miệt thị phẩm giá con người đối với tướng Oleg Kalugin.

Còn có một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên trong đường đời của tôi và G. Blake. Không lâu trước khi anh bị bắt, người ta chuyển tôi từ Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước (GNTK) sang cơ quan khác của chính phủ. Số phận đã đoái thương tôi nên chính bằng cách đó tôi đã thoát được việc gặp riêng với viên đại tá của đồng thời ba cơ quan tình báo - Tổng cục Tình báo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Liên Xô GRU, cơ quan tình báo Anh, cơ quan tình báo Mỹ - là Oleg Penkovsky. Nếu như tôi còn ở GNTK, thì theo chức vụ, tôi sẽ trực tiếp thuộc quyền hắn ta.

Những hậu quả của việc cùng làm dù là không lâu với tên phản bội đối với những đồng nghiệp cũ của tôi thì thật là buồn, nhiều người đã vĩnh viễn phải chia tay với cơ quan nhà nước. Sau này, tôi rất hả dạ khi được biết Penkovsky bị phát giác chủ yếu là nhờ những tin tức do G. Blake, người bạn có tâm hồn cao thượng của tôi, cung cấp.

Cho đến nay, tôi vẫn nhớ việc vào vai Boris như một trong những đoạn đời rực rỡ nhất trong cuộc đời công tác của mình. Bây giờ, sau nhiều năm đã trôi qua, tôi mới hình dung được những nhà tình báo là những con người như anh, như tôi, nhưng chỉ với một điểm khác biệt: cho đến một lúc nào đó, họ buộc phải sống một cuộc đời hai mặt, cái cuộc đời mà lúc đã về già không phải ai cũng có thể một lần nữa nhập thành một chỉnh thể toàn vẹn.

***

Print Print E-mail Print