VietnamDefence -
Người ta biết rất ít về tình hình phục vụ của Martin và Mitchell tại trạm chặn thu Kamisi tại Nhật. Qua các lá thư của Martin gửi về nhà có thể thấy rằng chính ở đó, Martin và Mitchell đã trở nên thân thiết với nhau. Mà làm sao tránh được?
Bởi lẽ
cả hai người cứ như hai hạt đậu nhỏ trong cùng một quả đậu. Cả hai đều
lớn lên ở những thành phố nhỏ của Mỹ như nhau, trong các gia đình trung
lưu đàng hoàng. Cả hai đều thích chơi cờ và âm nhạc. Trí thông minh của
cả hai đều cao hơn mức trung bình. Cả hai đều là người hướng nội và độc
thân đang tìm sự an ủi trong một thế giới hình thức và không có bản sắc
của khoa học nói chung, nhất là toán học. Về tín ngưỡng thì Mitchell tự
xưng là đệ tử của thuyết bất khả tri, còn Martin thì xưng là kẻ vô thần.
Mitchell
là người trở về Mỹ trước để học tiếp cao đẳng, tuy nhiên không phải là ở
trường mà anh ta đã học trước khi nhập ngũ. Đó là một trường cao đẳng
lớn, danh tiếng, ở xa thành phố quê hương anh ta. Mitchell học chuyên về
toán và học rất tiến bộ.
Khác với Mitchell, sau khi hết hạn quân
dịch trong Hải quân Mỹ, Martin đã ở lại quân đội nhưng với tư cách nhân
viên dân sự. Martin vẫn làm thứ công việc mệt mỏi và đơn điệu mà anh ta
đã chán ngấy. Martin chán ghét nước Mỹ. Thêm vào cảm xúc này là sự ghen
tị với Mitchell. Cuối cùng anh ta quyết định quay về nước.
Tại Mỹ,
trước tiên, Marin về thăm gia đình. Anh ta đã quyết định học tiếp, chỉ
còn việc chọn trường cao đẳng phù hợp. Một trong những cô giáo yêu quý
của Martin thời học phổ thông đã chuyển sang bờ Tây nước Mỹ làm giáo
viên tại một trường cao đẳng tầm cỡ. Martin đã vào học ở chính trường
này. Môn học chính anh ta chọn là toán. Không lâu sau, anh ta có thêm
một sở thích nữa là tiếng Nga. Anh ta vẫn không ngớt quan tâm đến những
đam mê cũ là cờ và thôi miên.
Mùa xuân năm 1957, Martin và Mitchell
đồng thời, mặc dù họ học ở các trường cao đẳng khác nhau, nhận được lời
mời vào làm cho NSA. Đóng vai trò quyết định là yếu tố họ học chuyên về
toán và trong một thời gian đã phục vụ tại trạm chặn thu của Hải quân
Mỹ. Cả hai đều nhận lời và từ ngày 8 tháng 7 năm 1957, họ đã bắt đầu
thực hiện chức trách của mình. Và mặc dù sau này, các đại diện Bộ Quốc
phòng Mỹ đã mô tả chức vụ của Martin và Mitchell là “các nhà toán học
cấp thấp”, nhưng chắc là họ được thuê để làm nhân viên mã thám.
Trong
thập niên 1950, tất cả các công chức Mỹ khi thực thi công vụ được tiếp
xúc với tin tức bí mật đều bắt buộc phải trải qua khâu “kiểm tra toàn
diện”. Đối với NSA có một ngoại lệ: trong những tình huống đặc biệt, khi
cần một chuyên gia nào đó làm việc ngay lập tức cho đất nước thì anh ta
được phép tạm thời tiếp cận các bí mật. Quyền tiếp cận tạm thời đó cũng
đã được trao cho Martin và Mitchell dựa trên những kiểm tra mà họ đã
trải qua khi nhập ngũ, cũng như khi điều tra hồ sơ của họ tại các cơ
quan điều tra các hoạt động phạm pháp của Mỹ. Sau này, các uỷ ban điều
tra hoạt động chống Mỹ của Hạ viện Mỹ đã phát hiện ra là NSA thường lạm
dụng quyền cấp phép tiếp cận bí mật tạm thời để cấp nó cho hầu như tất
cả không có loại trừ cho những người vào làm việc.
Không lâu sau khi
được nhận vào làm việc ở NSA, Martin và Mitchell được đề nghị kiểm tra
bổ sung trên máy phát hiện nói dối. Mitchell ban đầu nhất quyết từ chối
các câu hỏi liên quan đến việc phát hiện ra những lệch lạc tình dục ở
anh ta. Sau đó, anh ta nghĩ lại. Trong buổi kiểm tra trên máy phát hiện
nói dối, Mitchell đã thú nhận là hồi 13-19 tuổi, anh ta đã tiến hành các
thí nghiệm về định hướng tính dục với chó và gà con. Cơ quan an ninh
của NSA không coi những thí nghiệm này vào thời thanh thiếu niên là cơ
sở đủ để từ chối quyền tiếp cận tin mật của anh ta. Và năm 1958, cách
nhau 6 tháng, Martin và Martin đổi giấy phép tạm thời thành giấy phép
dài hạn.
Giống như tất cả những người vào làm việc tại NSA, Martin và
Mitchell được cử đến Trường Cơ yếu Quốc gia để học một số khoá về mật
mã, mã thám và các môn liên quan. Mùa thu năm 1957, họ cũng tham dự khoá
học do Đại học Tổng hợp Washington tổ chức.
Vào tháng 1 năm 1958,
sau khi học xong, Martin và Mitchell đã bắt tay vào làm việc. Họ sống
bên nhau ở thành phố Laurel, bang Maryland, không xa Fort Meade. Khi rỗi
rãi, cả hai đến câu lạc bộ chơi cờ Washington mà bí thư thứ nhất sứ
quán Liên Xô Ivanov cũng là thành viên. Ivanov đã bị trục xuất khỏi Mỹ
ngày 13 tháng 8 năm 1960. Và mặc dù chính phủ Mỹ chính thức đưa ra lý do
biện minh cho hành động này không liên quan đến cuộc chạy trốn của
Martin và Mitchell, nhưng một số người cho rằng, việc tuyên bố Ivanov là
người không được hoan nghênh trên lãnh thổ Mỹ được đưa ra rõ ràng là sự
trả thù cho vụ chạy trốn.
Năm 1958, Martin trở thành khách quen của
các quán bar và nhà hàng cốc-tai ở thủ đô và ngoại ô. Anh ta thường khoe
khoang với bạn bè về khả năng làm quen với những ông bự và tranh thủ
được lòng khoan ái của họ. Tháng 9 cùng năm đó, Martin nhận được học
bổng của NSA để hoàn thiện kiến thức toán học ở Đại học Tổng hợp
Illinois tại thành phố Urban, ở đó anh ta cũng tiếp tục học tiếng Nga.
Sau này, anh ta tự hào thú nhận với một người bạn là theo yêu cầu của
giáo viên hướng dẫn, anh ta có thể dịch một bài báo toán học về vấn đề
logic hoặc đại số từ tạp chí Liên Xô. Cũng trong năm 1958, đã xảy ra một
sự kiện quan trọng trong đời Mitchell: anh ta phải lòng một quý bà trẻ
đã có chồng, lúc đó đang sống ly thân.
Đến cuối năm 1958, những người
xung quanh bắt đầu nhận thấy những thay đổi cơ bản trong quan điểm của
Martin và Mitchell. Cả hai công khai bày tỏ thái độ chống Mỹ. Tại trường
đại học, người ta thấy Martin ở trong nhóm người có quan điểm thân
cộng. Đến năm 1959, Martin và Mitchell còn táo tợn hơn trong những chỉ
trích của mình. Họ bị kích động nhất bởi sự kiện các máy bay Mỹ thực
hiện các chuyến bay do thám trên lãnh thổ Liên Xô.
Tháng 2 năm 1959,
Martin đi từ Urban đến Washington để cùng với Mitchell đến gặp Wayne
Hayes, nghị sĩ Đảng Dân chủ của bang Ohio và kể về các chuyến bay của
các máy bay do thám. Vài năm sau, Hayes đã nhớ lại chuyến viếng thăm
này. Quả thực, vì lý do nào đó, ông ta đã coi họ là nhân viên CIA và
quên biến tên của họ. Vị nghị sĩ đã gửi thư chất vấn về các máy bay do
thám đến uỷ ban quân lực Hạ viện Mỹ và do bận những công việc cấp bách
hơn nên đã quên bẵng việc này. Sau này, tại một tối liên hoan, khi những
người tham dự dám cho phép mình cười cợt vụ máy bay U-2 mới xảy ra
trước đó, Martin đã bị xúc động mạnh và nói: “Tại sao các vị lại có thể
ngây thơ đến thế khi Eisenhower vẫn còn nắm quyền?!”