VietnamDefence -
Năm 1915, đại uý Rupert Stanley (trước là một giáo sư Đại học tổng hợp Belfast, tác giả của cuốn sách giáo khoa nổi tiếng thời đó "Sách giáo khoa về điện báo không dây" đã thiết kế một thiết bị gồm một anten nối đất và một máy thu ba bóng. ở khoảng cách dưới 100 mét một chút, máy này bằng cách sử dụng cảm ứng của các dây dẫn có thể chặn thu các cuộc gọi điện thoại của địch.
Sự hân hoan ban đầu của người Anh khi sử dụng máy thu của Stanley đã nhanh chóng tắt phụt khi họ biết rằng, người Đức cũng đã thiết kế được một loại máy thu tương tự. Kết quả là người Anh bị cấm gọi điện thoại ở khoảng cách dưới 2 kilômet so với chiến tuyến. Chiếc máy được cải tiến cho đến lúc đó đã cho phép Anh chặn thu tín hiệu của các kênh điện báo Đức ở khoảng cách tới 3 kilômet tính từ nguồn phát.
Nhà hoạt động nhà nước Anh đầu tiên đánh giá được đầy đủ tầm quan trọng và lợi ích của tình báo vô tuyến điện tử là Winston Churchill. Với tư cách là Bộ trưởng Hải quân Anh, mùa thu năm 1914, ông đã, theo lời ông, "có trách nhiệm nào đó" đối với việc khôi phục cơ quan mã thám Anh mà người ta đã dẹp bỏ ở Anh vào năm 1844 do có những phản đối ở nghị viện chống bóc trộm thư tín. Sự tham gia vào việc xây dựng kế hoạch các chiến dịch nhử hạm đội Đức sập bẫy ở biển Bắc bằng cách sử dụng dữ liệu thu được bằng các phương tiện tình báo vô tuyến điện tử vào tháng 12 năm 1914-tháng 1 năm 1915 đã gây ấn tượng mạnh đối với Churchill.
Mười năm sau, trong hồi kỳ về chiến tranh của mình, ông đã viết: "Tất cả những năm tôi giữ cương vị trong chính phủ kể từ mùa thu năm 1914, tôi đã đọc từng bản dịch các bức điện mật mã và với tư cách một phương tiện để đưa ra quyết định đúng đắn trong lĩnh vực chính sách xã hội, tôi đã đánh giá cao vai trò của chúng hơn bất kỳ nguồn tin tức nào có trong tay của nhà nước".
ở cương vị đứng đầu Bộ Hải quân Anh, Churchill đã "nhúng tay" vào việc thành lập trong Hải quân Anh một nhóm mã thám bố trí tại phòng số 40 của toà nhà Bộ Hải quân và nó đã đi vào lịch sử ngành tình báo vô tuyến điện tử với tên gọi "Phòng 40" (Room 40). Từ tháng 5 năm 1916, các chuyên gia mã thám của "Phòng 40" đã chuyển sang trực thuộc trực tiếp cục trưởng Cục Tình báo Hải quân Anh Reginald Hall. Trong tay ông, những tin tức thu được từ các kênh liên lạc của Đức đã trở thành vũ khí khủng khiếp chống lại gián điệp của đối phương.
Đầu năm 1916, Berlin và các cơ quan đại diện ngoại giao Đức ở Mỹ đã trao đổi với nhau nhiều bức điện mật mã mà "Phòng 40" đọc được. Trong một bức điện đó có yêu cầu kiên trì ủng hộ Đức "bằng sinh lực được trang bị vũ khí" gửi Roger David Casement (1864-1916), cựu lãnh sự Anh. Sau nỗ lực bất thành chiêu tập người tình nguyện vào một tiểu đoàn chống Anh từ các tù binh Ireland đang ở Đức, Casement đã chuẩn bị một cuộc nổi dậy ở Ireland. Trong một bức điện mật mã khác bị người Anh chặn thu có nói thời gian chiếc tàu ngầm Đức chở Casement khởi hành đi Ireland đang đến gần và đã xác định được rằng, sẽ phát từ lóng "lúa kiều mạch" nếu tàu ngầm chở Casement lên đường đúng theo dự định. Nếu nảy sinh khó khăn nào đó thì từ lóng "cỏ khô" sẽ được sử dụng. Ngày 12 tháng 4 năm 1916, trong dòng thác điện mật mã của Đức mà Anh được được có bức điện có chứa từ "lúa kiều mạch".
Còn 10 ngày sau, Casement đã đổ bộ lên Ireland và lập tức bị cảnh sát Anh phục sẵn bắt giữ. Ông ta vẫn tỏ ra bình tĩnh, khai tên giả và nói mình là nhà văn. Tuy vậy, trên đường đi, Casement đã cố vứt bỏ một mẩu giấy có những đoạn tiếng lóng ghi sẵn mà ông ta có thể cần đến như "hãy gửi thêm thuốc nổ". Cảnh sát đã phát hiện ra và tịch thu mẩu giấy làm bằng chứng. Casement đã bị xét xử và kết án về tội phản bội tổ quốc. Và mặc dù công luận Anh đã tích cực đấu tranh đòi huỷ bỏ bản án tử hình mà toà đã tuyên, Hall đã làm giảm được áp lực này bằng cách bí mật phát tán thông qua các câu lạc bộ ở London và Hạ viện Anh một số trang nhật ký của Casement cho thấy ông ta bị bệnh đồng tính ái. Ngày 3 tháng 8, Casement bị treo cổ.
Cơn sốt gián điệp ngự trị Anh quốc thời kỳ này đã trở nên cuồng loạn đến mức chỉ cần một con chim vỗ cánh bay lên thì một nhân chứng điên rồ trông thấy chuyện hoàn toàn vô hại này nhiều khi cũng gọi đến cảnh sát. Người đó hoàn toàn tin là mình đã trông thấy một điệp viên nước ngoài gửi báo cáo về "trung ương tình báo" bằng bồ câu đưa thư. Một lần, Hall đã tiếp một nhân viên hạt tài chính London tự xưng là "chuyên gia về viết liên lạc mật mã" và thông báo rằng đã đọc được các bức điện mật mã của các gián điệp Đức có liên quan đến sự di chuyển của quân Anh. Các bức điện này, theo ông ta, được gửi đi dưới dạng những tin cá nhân trên báo.
Hall lắng nghe ông ta và yêu cầu ông ta ghé lại khi có thêm các bằng chứng mới. Sau khi tiễn khách, Hall quyết định dạy cho ông ta bài học: Hall lập tức soạn một tin có vẻ khả nghi và đăng trên mục tin vắn tư nhân của báo Times. Hôm sau, "chuyên gia về liên lạc mật mã" quá cảnh giác kia liền đến gặp Hall với bức điện đã "giải mã". Theo cách diễn giải của ông ta thì tin vắn mà Hall sáng tác ra kia có nội dung nói rằng, các chủ lực hạm Anh đang chuẩn bị ra khơi từ các quân cảng Portsmouth và Plymouth. Người ta không biết "chuyên gia" kia phản ứng thế nào khi Hall thú nhận mẩu tin đáng ngờ trên báo Times chẳng hề là việc làm của gián điệp Đức. Chắc là ông ta chỉ không tin mà thôi.
Tiếp sau "chuyên gia về liên lạc mật mã" đó, Hall còn muốn nói chuyện riêng với một chuyên gia lạ thường nữa - đó là một thuyền trưởng của hạm đội Đức Franz Reinthelen. Các nhân viên cơ quan phản gián hải quân Anh đã đưa Reinthelen tới gặp Hall ngay sau khi tóm được ông ta từ chiếc tàu thuỷ xuyên Đại Tây Dương tuyến Hà Lan-Mỹ. Reinthelen là người tổ chức chiến dịch phá hoại nổi danh của Đức chống Mỹ. Đó thực sự là một trận hải chiến với những cuộc tấn công nhằm vào tàu bè thuộc mọi quốc tịch chở hàng hoá ít nhiều phục vụ mục đích quân sự.
Hoạt động của Reinthelen đã chấm dứt do tính không chuyên nghiệp của tuỳ viên quân sự Đức ở Washington là von Papen. Qua các bức mật điện vụng về của ông này mà người Anh chặn thu và giải mã dễ dàng, Anh biết trước dự kiến về nước của Reinthelen. Vấn đề còn lại, như người ta nói, là việc mang tính kỹ thuật. Điều thật trớ trêu là không lâu trước khi rời Mỹ, Reinthelen đã báo về cho các chỉ huy của mình rằng, theo nguồn tin từ các điệp viên người Mỹ của mình, người Anh đang đọc được điện tín mật mã ngoại giao của Đức và đã yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp. Tuy nhiên, ở Berlin người ta đã không nghe theo lời cảnh báo này và không tranh thủ thay đổi các mật mã đã bị lộ.