Vietnamdefence.com

 

Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Tàu khu trục (2)

VietnamDefence - Các lớp tàu khu trục tên lửa chủ lực của hải quân Trung Quốc.


>>
Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc (1)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Frigate, corvette... (3)


Type 051


Cho đến khá gần đây, các tàu khu trục tên lửa trong biên chế hải quân Trung Quốc là các tàu lớp Lữ Đại/Type 051 (Luda) được chế tạo trên cơ sở tàu lớp Projekt 56 của Liên Xô. Tổng cộng đã đóng 17 tàu trong thập niên 1970-1990 theo mấy loạt (Lữ Đại - Type 051, Type 051DT, Lữ Đại II - Type 051G, Lữ Đại III - Type 051GII) khác nhau ở phần trang bị vũ khí. Đến năm 2014, chúng đã bị loại khỏi biên chế hải quân Trung Quốc.

Tất cả các tàu khu trục lớp Type 051 có lượng giãn nước 3.700 tấn và được trang bị 2 bệ phóng (mỗi bệ lắp 3 ống phóng tên lửa chống hạm tầm trung HY-2 (С-201) - sao chép tên lửa P-15 của Liên Xô) và 1 bệ phóng mang 8 ống phóng tên lửa phòng không HQ-7. Một số tàu được trang bị 2 bệ phóng (mỗi bệ lắp 4 ống phóng), còn loạt tàu cuối lắp các bệ phóng tên lửa chống hạm С-801.

Vũ khí pháo binh trên tàu gồm 1 hoặc 2 ụ pháo 2 nòng 130 mm, 4 ụ pháo 2 nòng 37 mm hay 57 mm, 2 cụm x 2 ống phóng lôi 324 mm, 2 bệ phóng bom chống ngầm 12 nòng. Type 051 được trang bị hệ thống thông tin-chỉ huy ZKJ-4B/6, 2 radar dẫn đường Racal RM-1290, radar phát hiện mục tiêu mặt nước/trên không Type 381 và Type 360 (Thomson-CSF Sea Tiger) hoặc Square Tie, radar phát hiện mục tiêu trên không Type 517 hay Hughes, hệ thống điều khiển hỏa lực Wasp Head (Wok Won) hoặc Sun Visor В Type 343 hay Rice Lamp, radar dẫn đường Decca 1290 của công ty Racal, các trạm thủy âm chủ động Pegas 2М và Tamir 2 hay trạm thủy âm thả chìm độ sâu thay đổi DUBV 23. Trên các tàu này bố trí 2 trực thăng chống ngầm Z-9.

Việc điều khiển hỏa lực tên lửa phòng không được thực hiện nhờ hệ thống điều khiển hỏa lực Type 345 (Castor II do công ty Pháp Thomson-CSF phát triển), còn điều khiển bắn các ụ pháo 30 mm được thực hiện nhờ hệ thống điều khiển hỏa lực Type 347G.

Như vậy, ban đầu, hạm đội Trung Quốc được trang bị các tàu không phải được chế tạo chuyên để mang vũ khí có điều khiển mà là các mẫu tàu pháo-ngư lôi được cải tạo và hiện đại hóa.

Từ giữa thập niên 1990, Trung Quốc đã có những nỗ lực thay đổi cơ cấu chất lượng đội tàu khu trục bằng cách đóng các lớp tàu Type 051B và 052.

Type 052

Năm 1994-1996, hải quân Trung Quốc đưa vào biên chế 2 tàu khu trục lớp Type 052 Lữ Hồ (Luhu) có lượng giãn nước đầy đủ 5.700 tấn. Đây là những khu trục tương đối hiện đại đầu tiên của hải quân Trung Quốc. Vũ khí gồm 2 hệ thống tên lửa chống hạm (x2 ống phóng) YJ-82 (C-802); có lẽ các thông tin này liên quan đến việc hiện đại hóa vào năm 2004, khi mà số lượng bệ phóng đã được tăng lên đến 16 (4 cụm x 4 ống phóng) và hệ thống tên lửa phòng không HQ-7 (Crotale) - 1 bệ phóng với 8 ống phóng.

Ở đuôi tàu bố trí một hăng-ga và sân cất/hạ cánh cho 2 trực thăng Z-9A (biến thể Trung Quốc sản xuất theo giấy phép của trực thăng Pháp Dauphin-II) với hệ thống bảo đảm cất/hạ cánh Safecopter. Trực thăng có thể mang 2 ngư lôi chống ngầm А244 của Italia hay Мk.46 Mod.2 của Mỹ, trạm thủy âm thả chìm của Pháp Type HG-12 và một từ kế. Để tiêu diệt mục tiêu mặt nước, trực thăng có thể mang các tên lửa chống hạm.

Ngoài ra, các tàu khu trục còn đượclắp 1 ụ pháo 2 nòng 100 mm và 4 ụ pháo phòng không 2 nòng 37 mm, 2 thiết bị phóng lôi 324 мм (ngư lôi Yu-2) và 2 hệ thống phóng bom chống ngầm 12 nòng. Các tàu sử dụng động cơ turbine khí: trên tàu đầu tiên là động cơ Mỹ GE LM2500 công suất 55.000 mã lực mua qua Thái Lan để né cấm vận, trên tàu thứ hai dùng động cơ Ukraine GT25000 công suất 48.600 mã lực.

Trong hệ thống động lực chính của tàu, thành phần động cơ diesel trên cả 2 tàu là các động cơ diesel Đức MTU 12V 1163TB83 do Trung Quốc sản xuất theo giấy phép, có tổng công suất 8.840 mã lực. Sự kết hợp động cơ turbine khí Ukraine với động cơ diesel sản xuất theo giấy phép của Đức cũng được áp dụng trên các tàu khu trục sau đó của Trung Quốc.

Các tàu khu trục lớp Type 052 được trang bị radar phát hiện Type 360 (DRBV-15 SEA TIGER) của Pháp, cho phép phát hiện mục tiêu bay ở cự ly đến 110 km, mục tiêu mặt nước ở cự ly đến 38 km, và hệ thống thông tin-chỉ huy ZKJ-4B/6 (Thomson-CSF TAVITAC của Pháp), hệ thống điều khiển hỏa lực Thomson-CSF Crotale và hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa/pháo VEGA, trạm thủy âm kéo DUBV-43.

Lô Châu (Luzhou), về mặt cấu tạo chính là thân tàu giống với Type 051B Lữ Hải (Luhai), lượng giãn nước tăng lên đến 7.100 tấn, nhưng được trang bị 6 bệ phóng (mỗi bệ chứa 8 tên lửa) của hệ thống tên lửa phòng không S-300F (Rif-М) của Nga và 2 hệ thống pháo phòng không Type 730 được thiết kế theo ý tưởng hệ thống Vulcan-Phalanx với các hệ thống ngắm được làm liền khối với ụ pháo, vốn đã trở thành xu thế toàn thế giới đối với các hệ thống này. Đối với hạm đội Trung Quốc, tập hợp vũ khí đó lúc đó có thể coi là bước tiến lớn về mặt tăng cường mạnh mẽ tiềm lực tác chiến phòng không của tàu, cũng như về mặt phát triển công nghệ đóng tàu quân sự của Trung Quốc.

Do những thay đổi kết cấu ở phần giữa tàu, số lượng bệ phóng tên lửa chống hạm đã giảm xuống còn 8 (2 cụm x 4 ống phóng). Tuy nhiên, khẳng định của Yu.V. Vedernikov về việc tàu không được trang bị trực thăng [11] có lẽ không hoàn toàn đúng khi phân tích các bức ảnh của tàu khu trục này. Việc bố trí 4 bệ phóng tên lửa phòng không thẳng đứng ở phần thân tàu thường dành cho hăng-ga trực thăng sẽ khó cho phép giữ chỗ cho trực thăng ở bên trong thân tàu. Nhưng việc có bãi đáp trực thăng lại cho thấy có thể triển khai trực thăng trên tàu.

Type 051В và Type 051С

Tàu khu trục Lữ Hải [Luhai] số hiệu 167, lớp Type 051B (Jeffhead.com)

Năm 1999, tàu khu trục lớp Type 051B Lữ Hải (Luhai) có lượng giãn nước 6.000 tấn và trang bị 16 bệ phóng (4 cụm x 4 ống phóng) tên lửa chống hạm С-802 và 1 bệ phóng x 8 ống phóng tên lửa phòng không ЗРК HQ-7 (Crotale). Biến thể này của lớp không được phasttrieenr tiếp, nhưng nhà nghiên cứu Yu.A. Vedernikov cho rằng [ix], trên tàu đã dự định sử dụng các bệ phóng thẳng đứng, nhưng do các hệ thống mới chưa sẵn sàng nên Trung Quốc chỉ đóng 1 tàu khu trục kiểu này.

Khẳng định giả thiết này có thể là sự xuất hiện trong biên chế hạm đội Trung Quốc vào năm 2006-2007 của 2 tàu khu trục lớp Type 051C Luzou vốn về cấu tạo chính là các thân tàu tương tự lớp Type 051B Lữ Hải (Luhai), với lượng giãn nước tăng lên đến 7.100 tấn, nhưng được trang bị đến 6 bệ phóng x 8 tên lửa/bệ của hệ thống tên lửa phòng không Nga S-300F (Rif-M) và 2 hệ thống pháo phòng không Type 730 được thiết kế tương tự hệ thống Vulcan-Phalanx với các hệ thống ngắm được bố trí liền một khối với ụ pháo, điều đã trở thành xu thế toàn cầu đối với các hệ thống như vậy.

Đối với hạm đội Trung Quốc, thì tập hợp vũ khí đó thời ấy có thể coi là bước tiến lớn về mặt tăng mạnh khả năng phòng không của tàu, cũng như về mặt phát triển công nghệ đóng tàu Trung Quốc.

Do các thay đổi kết cấu ở phần giữa tàu, số lượng bệ phóng tên lửa chống hạm đã giảm xuống còn 8 (2 cụm x 4 ống phóng). Tuy nhiên, khẳng định của Yu.V. Vedernikov về việc tàu không có trực thăng [x] có lẽ không đúng hẳn khi phân tích các bức ảnh tàu này. Việc bố trí 4 bệ phóng tên lửa phòng không thẳng đứng ở phần thân tàu thường dành cho hăng-ga trực thăng khó có thể cho phép dành chỗ cho trực thăng ở bên trong tàu. Nhưng sự hiện diện của bãi đáp lại cho thấy trực thăng có thể bố trí trên tàu.

Tàu khu trục Thạch Gia Trang [Shijiazhuang] số hiệu 116, lớp Type 051С (china-defense-mashup.com)

Các bệ phóng của hệ thống tên lửa phòng không S-300F (Rif-М) được bố trí ở phần mũi (2 module) và phần đuôi (4 module). Mỗi module chứa 8 tên lửa, tổng cơ số đạn là 48 tên lửa 48N6. Tầm bắn là 5-150 km, radar của hệ thống bám được đến 12 mục tiêu, bắn đồng thời 6 mục tiêu [12].

Cần lưu ý là radar điều khiển được làm như một trạm có khả năng hoạt động ở một sector nhất định [13], khối thiết bị của nó được bố trí trên phần thượng tầng ở phần đuôi tàu. Do đó, khả năng phát huy đầy đủ tiềm năng của tên lửa phòng không trong bệ phóng thẳng đứng ở sơ đồ dẫn như thế xem ra là đáng ngờ.

Ngoài tên lửa chống hạm và tên lửa phòng không, Type 051B còn được trang bị 1 ụ pháo 2 nòng 100 mm, 4 ụ pháo phòng không 2 nòng 37 mm, 2 ống phóng lôi 324 mm (ngư lôi Yu-2), 2 trực thăng Kа-28 hay Harbin Z-9C. Tàu được trang bị radar phát hiện mục tiêu bay Rice Shield, radar phát hiện mục tiêu mặt nước và trên không Type 360S, radar điều khiển hỏa lực pháo Type 344.

Ngoài hệ thống tên lửa phòng không S-300F, Type 051С được trang bị 8 bệ phóng tên lửa chống hạm YJ-83 có tầm bắn đến 120 km, lắp động cơ hành trình turbine phản lực, đầu tự dẫn radar chủ động, tốc độ hành trình 0,9 М, phần chiến đấu nặng 165 kg. Có tin, tên lửa có thể sử dụng để tấn công mục tiêu mặt đất. Tàu còn được trang bị 1 ụ pháo một nòng 100 mm có tốc độ bắn 90 phát/phút và dùng để tác chiến chống mục tiêu mặt nước và trên không; 2 hệ thống pháo phòng không 7 nòng Type 730 cỡ 30 mm với tốc độ bắn 4.600-5.800 phát/phút và tầm bắn hiệu quả 3 km. Vũ khí chống ngầm gồm 2 ống phóng lôi 324 mm với các ngư lôi Yu-7 tầm bắn 7,3 km, tốc độ chạy 43 hải lý/h và phần chiến đấu 45 kg. Tàu có 2 hệ thống bắn vật phản xạ lưỡng cực 15 nòng.

Type 051С được trang bị radar ba chiều phát hiện mục tiêu bay Fregat-MAE-5 tầm hoạt động 120 km đối với máy bay và 50 km đối với tên lửa chống hạm, có khả năng bám đồng thời đến 40 mục tiêu; radar phát hiện mục tiêu mặt nước MR36; radar ngoài đường chân trời chỉ thị mục tiêu cho tên lửa chống hạm Mineral-ME; 2 radar nội địa Type 347G điều khiển hỏa lực của hệ thống pháo phòng không Type 730[14].

Type 052В và Type 052С

Vào khoảng thời gian xuất hiện trong hải quân Trung Quốc lớp tàu khu trục Type 051С với các bệ phóng tên lửa phòng không tầm xa thẳng đứng vào giữa những năm 2000 đã đóng 2 lớp tàu mới là Type 052B và Type 052С. Cả hai loại dựa trên một thân tàu và hệ thống động lực giống nhau, Type 052В được đưa vào biên chế vào năm 2004, Type 052С - vào cuối năm 2005.

Tàu khu trục Vũ Hán [Wuhan] số hiệu 169, lớp Type 052B (sinodefenceforum.com)

Type 052B có lượng giãn nước 6.500 tấn, về cơ cấu vũ khí gần với các tàu khu trục lớp Projekt 956E/EM, có trên boong 2 bệ phóng hệ thống tên lửa phòng không Shtil với một ray dẫn hướng (48 tên lửa), 4 bệ phóng x 4 ống phóng tên lửa chống hạm YJ-83[15], một hăng-ga dành cho 1 trực thăng, 2 máy phóng bom Type 75 tầm bắn đến 1,2 km, các vũ khí còn lại tương tự như Type 051С: 1 ụ pháo một nòng 100 mm, 2 hệ thống pháo phòng không 30 mm Type 730, 2 ống phóng lôi.

Trung Quốc chỉ đóng loạt tàu này với số lượng 2 chiếc, trong đó chiếc thứ hai được đưa vào biên chế vào cuối năm 2004. Nguyên nhân rõ ràng là do việc cải tiến sau đó của các tàu khu trục lớp này.

Đáng chú ý là lớp tàu khu trục Type 052С. Đây là tàu hộ tống đầu tiên của Trung Quốc có cấu trúc vũ khí trang bị gần giống với DDG51 trang bị hệ thống Aegis của Mỹ. Khác biệt cơ bản so với các lớp tàu khu trục trước đó là tàu được trang bị một radr đa năng anten mạng pha quét điện tử hoàn toàn, có thiết kế dạng 4 module tĩnh trên phần thượng tầng.

Tàu khu trục Hải Khẩu [Haikou] số hiệu 171, lớp Type 052C (Jeffhead.com)

Tàu có lượng giãn nước 6.600 tấn, trang bị 8 bệ phóng của hệ thống tên lửa phòng không HQ-9, mỗi bệ lắp 6 tên lửa. Phần lớn các bệ phóng (4 bệ) được lắp ở phần mũi tàu, chỉ có 2 bệ lắp ở đuôi, ở giữa phần thượng tầng, vốn được sử dụng làm hăng-ga chứa trực thăng. Như vậy, khác với Type 051С, trên tàu vẫn còn chỗ dành cho một trực thăng.

Một khác biệt ở trang bị vũ khí là tên lửa chống hạm YJ-62 (C-602) lắp trên 2 bệ phóng x 4 ống phóng [16]. Các vũ khí còn lại giống như Type 052В.

Ngày 9/1/2015, hải quân Trung Quốc đưa vào biên chế tàu thứ 9 có tên Tây An (Xian) của lớp tàu này [17].

Type 052D

Với việc chế tạo các tàu khu trục lớp Type 052D, hải quân Trung Quốc đã thực hiện được bước tiến từ đóng các tàu thông thường, trang bị các hệ thống tên lửa chuyên dụng sang chế tạo một chiến hạm đa năng kiểu Aegis của Mỹ, có khả năng thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn so với các nhiệm vụ đặc trưng của các tàu làm nhiệm vụ hộ tống trước đó của hải quân Trung Quốc, kể cả tấn công các mục tiêu bờ bằng tên lửa hành trình.

Tàu khu trục Côn Minh [Kunming] số hiệu 172, lớp Type 052D (militaryphotos.net)

Tàu đầu tiên lớp này được đưa vào biên chế ngày 21/3/2014, cuối năm đó có tin, tàu thứ hai là Trường Sa (Changsha) đang chạy thử, còn 6 tàu khác đang được đóng ở các giai đoạn khác nhau [18].

Theo các chuyên gia, Type 052D sẽ là lần hiện đại hóa cuối cùng của họ tàu khu trục thế hệ 3 của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo chiến hạm thế hệ 4.

So với Type 052C, kích thước của tàu lớn hơn một chút do sự đổi mới thành phần thiết bị điện tử và các hệ thống vũ khí mới. Tàu có lượng giãn nước 7.500 tấn, còn theo các nguồn tin khác thì lượng giãn nước là gần 1.0000 tấn.

Hệ thống động lực kiểu kết hợp diesel-turbine khí (CODOG), gồm 2 động cơ turbine khí QC-280 có tổng công suất 28 MW và 2 động cơ diesel Shaanxi (bản sao chép của Trung Quốc động cơ MTU 20V956TB92) tổng công suất 8.840 mã lực. Trên các tàu Type 052D là lần đầu tiên trên các tàu khu trục Trung Quốc, người ta không dùng bệ phóng thẳng đứng dạng ổ quay được thiết kế cho những loại tên lửa cụ thể mà lựa chọn các bệ phóng thẳng đứng vạn năng hơn kiểu module-ô phóng chứa 8 tên lửa phòng không, chống ngầm hay tên lửa hành trình chiến thuật mỗi bệ (trên mỗi tàu lớp này có tổng cộng 64 tên lửa). 4 module bệ phóng thẳng đứng vạn năng được bố trí ở phần mũi tàu, trước phần thượng tầng, 4 module khác ở phần đuôi của phần thượng tầng, trước hăng-ga trực thăng. Trong các bệ phóng thẳng đứng vạn năng có thể bố trí các tên lửa phòng không tầm xa HHQ-9B, tên lửa chống hạm thế hệ mới YJ-18A, tên lửa chống ngầm CY-2 với phần chiến đấu là ngư lôi Yu-8. Có tin tàu còn có thể được trang bị tên lửa hành trình tấn công mục tiêu mặt đất.

Tàu khu trục Côn Minh [Kunming] số hiệu 172, lớp Type 052D (militaryphotos.net)

Vũ khí pháo chính của tàu là ụ pháo hoàn toàn tự động vạn năng một nòng 130 mm H/PJ-38 do Trung Quốc sản xuất, sao chép ụ pháo AK-130-MR-184 của Nga, dùng để bắn mục tiêu mặt đất và mục tiêu bay, kể cả tên lửa hành trình dưới âm. Giống như các tàu khu trục Trung Quốc hiện đại khác, Type 052D được lắp 2 hệ thống pháo phòng không 30 mm Type 730. Đặc điểm quan trọng về trang bị vũ khí của tàu là việc tăng cường khả năng phòng không bằng cách lắp hệ thống tên lửa phòng không tầm gần FL-3000N với 24 tên lửa TY-90 tầm bắn 9 km. Theo ý tưởng thiết kế, hệ thống này tương tự hệ thống tên lửa phòng không RAM.

Vũ khí chống ngầm gồm 2 cụm x 3 ống phóng lôi để bắn ngư lôi Yu-7 và 4 hệ thống phóng bom phản lực 18 nòng. Ở đuôi tàu có bố trí bãi đáp và hăng-ga cho một trưc thăng chống ngầm Kа-28 của Nga hay Z-9C của Trung Quốc.

Các tàu Type 052D được trang bị radar mới Type 346 với anten mạng pha có kích thước hình học lớn hơn đáng kể radar anten mạng pha Type 438 lắp trên các tàu khu trục lớp Type 052C, cũng như radar phát hiện tầm xa Type 518 băng L.

Projekt 956E và 956EM

Trong biên chế hải quân Trung Quốc, ngoài các tàu tự đóng, còn có 4 tàu khu trục do Nga đóng (2 tàu đầu tiên là các tàu đóng dở thời Liên Xô) lớp Projekt 956 Sovremenny. Các tàu đầu tiên được đưa vào biên chế hải quân Trung Quốc vào năm 1999 (với tên gọi Hàng Châu, số hiệu 136) và những năm 2000 (Phúc Châu, số hiệu 137), chúng được (PKB) Phương Bắc phát triển dựa trên thiết kế Projekt 956 của Hạm đội Phương Bắc, Hải quân Nga vào năm 1997. Kết quả là biến thể xuất khẩu Projekt 956E cơ bản giống với thiết kế cơ sở. Trên tàu đã nghiên cứu bố trí một trực thăng Nga Ka-28 với phương án cất giữ tạm thời trong hăng-ga di động.

Khác với thiết kế cơ sở, các tàu Trung Quốc cũng được trang bị các nồi hơi chính mới KVG-3 (trên các tàu của Hải quân Nga là nồi hơi KVN-98/64-11), hệ thống liên lạc vô tuyến điện tự động hóa mới R-782-5KE. Để thực hiện đơn hàng của hải quân Trung Quốc, Nga dùng cả các tàu đóng dở cho Hải quân Liên Xô vào năm 1988 là tàu khu trục Vazhny (số hiệu nhà máy 878) và vào năm 1989 là tàu Vdumchivy (số hiệu nhà máy 879). Việc đóng hoàn thiện 2 tàu này bắt đầu tại Công ty “Nhà máy đóng tàu “Severnaya verf”” vào năm 1997 [19]

Tàu khu trục Ninh Bồ [Ningbo] số hiệu 139, lớp Projekt 956EM (china-defense-mashup.com)

Hai tàu khu trục thiếp theo được đóng hoàn thiện theo thiết kế cải tiến là Projekt 956EM, trên đó, Trung Quốc không chỉ yêu cầu loại bỏ một phần vũ khí pháo binh: bỏ ụ pháo 130 mm ở đuôi trong thiết kế cơ sở mà Yu.V. Vedernikov đã nói đến [20], mà còn thiết kế lại phần đuôi để trang bị cơ cấu vũ khí hợp lý hơn.

Các tàu này có lượng giãn nước lớn là 8.000-8.500 tấn ngay cả khi so với các tàu khu trục đang đóng hiện nay lớp Type 052D.

Tất cả 4 tàu khu trục Projekt 956E/EM đều được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm sử dụng tên lửa 3М80 Moskit lắp trên 2 bệ phóng đồ sộ, mỗi bệ mang 4 ống phóng ở hai bên mạn tàu. Vũ khí phòng không chính là hệ thống tên lửa phòng không М-22 Uragan, vũ khí phòng không tầm gần là 4 ụ pháo АK-630 lắp trên các tàu Projekt 956E và 2 hệ thống tên lửa phòng không Kortik trên các tàu Projekt 956EM. Trong thành phần vũ khí, còn có 1 trực thăng chống ngầm, các ống phóng lôi, 2 hệ thống phóng bom phản lực RBU-1000 và thủy lôi. Về thiết kế, trên Projekt 956EM, phần thượng tầng ở phần đuôi được kéo dài, nhờ đó đã bố trí được hăng-ga để bố trí lâu dài 1 trực thăng (trên Projekt 956E hăng-ga là kiểu di động), bố trí trên mỗi tàu 1 hệ thống tên lửa/pháo phòng không Kortik [21].

Cơ số đạn của hệ thống tên lửa phòng không là 48 tên lửa, tuy nhiên nhược điểm lớn là bệ phóng chỉ mang 1 tên lửa, nhịp phóng giữa các quả tên lửa phóng đi bằng một bệ phóng là 12 s. Tầm bắn của hệ thống tên lửa phòng không là 25-32 km (theo các nguồn khác là 40-50 km).

Theo ông Yu.V. Vedernikov, các tàu lớp Projekt 956 tạo ra “dòng tàu Nga” trong các tàu khu trục của hải quân Trung Quốc mà một binh đoàn tiến công đồng nhất của 4 tàu này có sức tấn công mạnh (32 tên lửa hành trình) và tiềm lực phòng không lớn (192 tên lửa phòng không) có khả năng hoạt động tốt trên đại dương.

Xét đến thời gian xuất hiện các tàu Projekt 956E/EM trong hải quân Trung Quốc, có thể dự đoán rằng, hải quân Trung Quốc trong hoàn cảnh các tàu của họ chỉ được trang bị các hệ thống vũ khí có tính năng hạn chế nên đã cần mua một số tàu tiến công có năng lực tạo ra sức mạnh răn đe đối với kẻ thù tiềm tàng. Cú hích để làm việc đó là các sự kiện tháng 3/1996 tại eo biển Đài Loan, khi Mỹ phái đến khu vực này 2 cụm tàu sân bay, sau đó hợp đồng mua tàu chiến Nga mới bắt đầu được thực hiện thực tế mặc dù việc đàm phán mua bán tàu này với Trung Quốc bắt đầu từ năm 1992 [22].

Và hiện nay, 15 năm sau khi đưa vào biên chế tàu đầu tiên trong loạt tàu Projekt 956E/EM, trong các tổng quan phân tích về sự phát triển của hải quân Trung Quốc sự hiện diện của các tàu này được nêu riêng biệt do có khả năng tấn công bằng tên lửa chống hạm ở tầm hơn 200 km nhờ tàu có radar ngoài đường chân trời [23]. Cần nói thêm ở đây về những tính năng kỹ thuật khác thường của bản thân các tên lửa chống hạm 3М80 Moskit so với các loại tên lửa chống hạm hiện đại đông đảo. Moskit có trọng lượng phóng đến 4,5 tấn, tốc độ hành trình 2,35М, tốc độ bay ở gần mục tiêu 2,8М, trọng lượng phần chiến đấu 300-320 kg, tầm bay tùy thuộc vào biến thể là 90-100 km (3М80Е), đến 120 km (3М80Е1), đến 140 km khi bay ở độ cao nhỏ và đến 240 km khi bay theo quỹ đạo kết hợp đối với 3М80MVE [24]. Có lẽ đánh giá tốc độ của tên lửa này trong các nguồn của Mỹ là dựa trên khả năng tăng tầm bay nhờ tối ưu hóa biên dạng bay áp dụng ở tên lửa 3М80MVE.

>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc (1)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Frigate, corvette... (3)


(Còn tiếp)

Nguồn: Các loại tàu nổi trang bị tên lửa có điều khiển của hải quân Trung Quốc / Oleg Valetsky, Oleg Ponomarenko // csef, 30.04.2015.

Print Print E-mail Print