Vào năm 1970, có hơn 500 người Mỹ biết rõ tên bị bắt làm tù binh và bị giam ở các trại giam ở miền Bắc Việt Nam. Ở Paris, định kỳ diễn ra các cuộc đàm phán với ban lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc giải phóng tù binh, nhưng trong hai năm, việc đàm phán đã không đem lại kết quả nào. Người Mỹ cho rằng, đã đến lúc phải giải quyết vấn đề giải phóng tù binh bằng phương pháp khác, cực đoan hơn.
Ngày 6/8/1970 Chuẩn tướng không quân LeRoy J. Manor, người được bổ nhiệm làm Tư lệnh Lực lượng Tác chiến đặc biệt Không quân Mỹ, bị triệu đến Lầu Năm góc. Đúng thời gian đã định, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, Đô đốc Thomas H. Moore đã tiếp Chuẩn tướng LeRoy J. Manor và Đại tá lục quân Arthur D. “Bull” Simons từ Quân đoàn dù 18. Sau cuộc nói chuyện sơ bộ ngắn, Đô đốc Moore thăm dò hai thuộc cấp liệu họ có sẵn sàng nghiên cứu khả năng thực hiện một nỗ lực giải cứu một số tù binh Mỹ đang ở Bắc Việt không. Cả hai sĩ quan đều trả lời khẳng định.
Sau đó, Chuẩn tướng Manor đã được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Lực lượng đặc nhiệm chiến dịch, còn Đại tá Simons được cử làm phó cho ông ta. Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird đã cho phép thành lập Lực lượng đặc nhiệm chiến dịch và cam kết cung cấp mọi nguồn lực cần thiết.
Thành lập Lực lượng đặc nhiệm chiến dịch
Trong một thời gian ngắn, đã lựa chọn được 26 sĩ quan được đào tạo về lĩnh vực lập kế hoạch. Việc đổ bộ và bốc rút quân cùng với các tù binh được giải cứu dự kiến thực hiện bằng trực thăng.
Khi thành lập bộ phận tác chiến cho Lực lượng đặc nhiệm chiến dịch, người ta quyết định chỉ chọn những người tình nguyện. Đơn vị đổ bộ được biên chế quân lấy từ các nhóm đặc nhiệm. Phi công lái các máy bay tham gia chiến dịch được chọn từ Không quân Mỹ.
Để chuẩn bị và huấn luyện, người ta đã chọn căn cứ không quân Eglin, bang Florida. Tại đây, không hề có ai ngoài binh lính nên bảo đảm bí mật hoàn toàn cho công tác chuẩn bị chiến dịch.
Việc tuyển chọn người tình nguyện được thực hiện tại đại bản doanh của Lực lượng Tác chiến đặc biệt Mỹ, Fort Bragg. Họ quyết định chọn những người có các kỹ năng phù hợp, kinh nghiệm chiến đấu ở Đông Nam Á và thể lực tốt. Đã có gần 500 người hưởng ứng lời kêu gọi. Mỗi người đều được phỏng vấn, sau đó đã chọn được 100 người đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Hai sĩ quan được chọn để chỉ huy cuộc tập kích. Một là Trung tá Elliott P. “Bud” Sydnor từ Fort Benning, bang Georgia, người có uy tín cao với tư cách một chỉ huy chiến đấu. Người thứ hai là Đại úy Richard J. “Dick” Meadows từ Fort Benning.
Khi lập kế hoạch chiến dịch, họ đã chọn trình tự đội hình chiến đấu đổ bộ như sau:
- Đội yểm trợ có mật danh Greenleaf dưới sự chỉ huy của Đại tá Simons;
- Đội đột kích có mật danh Blueboy dưới sự chỉ huy của Đại úy Meadows;
- Đội bảo đảm có mật danh Redwine dưới sự chỉ huy của Trung tá Sydnor.
- Đơn vị không quân tiền phương dùng để chở biệt kích tới mục tiêu và yểm trợ trong chiến đấu gồm 5 trực thăng HH-53C Super Jolly, 1 trực thăng HH-3E Jolly Green, 2 máy bay MC-130 Combat Talon và 5 cường kích А-1E Skyraider. Tất cả các thành viên các tổ lái của đơn vị đều là dân chuyên nghiệp, có kinh nghiệm tác chiến. Sau khi biết mục đích của chiến dịch, họ đều tỏ ý muốn tham gia. Kết quả là tham gia chiến dịch toàn là lính tình nguyện.
Lập kế hoạch và chuẩn bị
Trong quá trình lập kế hoạch, đã quyết định tiến hành chiến dịch giải cứu vào ban đêm. Để bảo đảm tầm bay cần thiết cho các trực thăng thì tổ chức tiếp dầu trên không cho chúng. Tất cả đều thống nhất là để chiến dịch thắng lợi, cần bảo đảm tính bất ngờ và giành quyền chủ động ít ra là trong những phút đầu giao chiến.
Vào cuối tháng 8/1970, toàn bộ quân số của Lực lượng đặc nhiệm chiến dịch hỗn hợp đã được tập trung về căn cứ không quân Eglin.
Các hành động chính dự định tập dượt tại bãi Duke Field. Cách không xa bãi này đã xây dựng một mô hình trại giam Sơn Tây. Thông tin về cơ sở hạ tầng của trại giam do Cục Tình báo trung ương CIA cung cấp. Mô hình này có kích thước như thật đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác huấn luyện binh lính tham gia chiến dịch, nhất là Đội đột kích của Đại úy Meadows. Tại đây, đã tập dượt chi tiết tất cả các bộ phận của chiến dịch, kể cả các hành động của các trực thăng.
Họ đặc biệt chú ý đến vấn đề sử dụng hiệu quả sức mạnh hỏa lực của trực thăng, xạ kích súng máy trên trực thăng và súng của lực lượng đổ bộ từ trên trực thăng trong khi bay và khi đổ bộ. Do HH-53 có độ ổn định tốt hơn UH-1H khi bắn nên trực thăng này đã được chọn tham gia chiến dịch. Trên trực thăng, các vị trí lắp đặt vũ khí đã được thay đổi. Vũ khí được bố trí trong cửa đuôi và trong khoang. Ngoài ra, trực thăng này còn cho phép bố trí 1 súng máy 7,62 mm ở cửa sổ bên trái phía trước, còn 10 tay súng khác có thể bắn qua các khe ở mạn phải, qua cửa bên phải và cửa đuôi. Chế độ bắn đó cho phép tạo vùng hỏa lực sát thương dày đặc xung quanh trực thăng. Trong khi đổ bộ, 1 súng máy М60 kịp bắn ra không dưới 100 viên đạn. Cũng trong thời gian này, mỗi biệt kích đổ bộ bắn được không dưới 30 viên đạn 5,56 mm của súng trường М-16. Điều đó bảo đảm mật độ hỏa lực cao trên bãi đổ bộ.
Việc huấn luyện các tổ lái diễn ra ban đêm. Việc sử dụng trong chiến dịch các loại máy bay, trực thăng khác nhau cũng gây thêm nhiều khó khăn. Tiến trình chiến dịch được tập dượt lần lượt theo từng phần ở nhịp độ chậm. Các yếu tố mới của chiến dịch từng bước được bổ sung. Sau đó, bắt đầu tập song song hoạt động bảo đảm hỏa lực cho chiến dịch bằng các máy bay С-130 và А-1. Rieengng trong quá trình chuẩn bị, các phi công đã bay 1.054 giờ mỗi người.
Đợt luyện tập cuối cùng diễn ra từ 2 giờ đêm đến 5 giờ sáng và cho thấy các thành viên tham gia đã hoàn toàn sẵn sàng hành động.Trong khi đó, nhóm kế hoạch ở Lầu Năm góc và nhóm tác chiến ở Florida cũng đã thuận lợi tiến đến mục tiêu, Don Blackburn đã thiết lập được quan hệ với các cơ quan tình báo nhằm hỗ trợ cho nhóm.
Khi tiếp dầu ban đêm, điều quan trọng là trời quang mây, vị trí của mặt trăng là 35 độ trên đường chân trời. Điều đó đã buộc nhóm kế hoạch phải tìm một kẽ hở bảo đảm được các điều kiện thời tiết cần thiết. Thích hợp để tiến hành nhiệm vụ là quãng thời gian từ ngày 21-25/10 và ngày 21-25/11. Ban đầu, họ đã chọn ngày 21/10 để tiến hành chiến dịch. Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ phê chuẩn kế hoạch. Ngày 24/9, kế hoạch được báo cáo với Bộ trưởng Quốc phòng thông qua.
Ngày 8/10, kế hoạch được trình tại Nhà Trắng cho Cố vấn An ninh quốc gia Henry Kissinger và trợ lý quân sự của ông ta là Chuẩn tướng Alexander Haig. Tướng LeRoy J. Manor báo cáo với họ rằng, cần có được sự đồng ý của Tổng thống Mỹ trong vòng 24 giờ để có điều kiện tiến hành chiến dịch đúng hạn. Nhưng Kissinger nói rằng, điều đó là không thể vì lúc đó không thể gặp Nixon. Bởi vậy, người ta đề xuất lùi thời gian bắt đầu chiến dịch sang ngày 21/11.
Sự trì hoãn này làm cho những người lãnh đạo chiến dịch rất khó chịu vì nó lại đòi hỏi phải cập nhật thông tin tình báo về mục tiêu. Nhưng mặt khác, họ cũng có thêm 30 ngày chuẩn bị. Nhờ việc trì hoãn này, đã có thể lắp cho máy bay МС-130 một thiết bị hồng ngoại quan sát phía trước FLIR (Forward Looking Infra Red) và các máy ngắm đêm tốt hơn cho vũ khí trên máy bay. Còn bác sĩ Joe Cataldo thì hoàn thiện kế hoạch hỗ trợ cho các binh sĩ yếu mệt trong quá trình bốc rút.
Ngày 1-/11, 2 chiếc MC-130 Super Talon cất cánh rời căn cứ không quân Eglin bay đến Takhli (Thái Lan) để tham gia chiến dịch. Đội máy bay vận tải gồm 4 chiếc C-141 dùng để vận chuyển quân và trang thiết bị của Lực lượng đặc nhiệm chiến dịch được chuyển giao sau các cuộc trao đổi riêng giữa Chuẩn tướng LeRoy J. Manor và Tướng Jack J. Catton, Tư lệnh Bộ chỉ huy Không quân vận tải. Các máy bay đã cất cánh từ Eglin vào ngày 14/11 và sau hai ngày đã đến Takhli.
Tại Thái Lan, họ hoàn thành những bước chuẩn bị cuối cùng. Để chế áp các đại đội tên lửa đất đối không Bắc Việt, lực lượng không quân của chiến dịch được biên chế các máy bay cường kích F-105. Ngoài ra, còn có các tiêm kích F-4 Con ma để bảo vệ đội máy bay hỗn hợp chống cuộc tấn công có thể xảy ra của các tiêm kích MiG của Bắc Việt.
Các máy bay A-1E, F-105S và F-4 đóng tại các căn cứ không quân Korat, Ubon và Nakhon Phanom. Các máy bay tiếp dầu KC-130 đóng tại căn cứ không quân Utapao, phía nam Bangkok. Các trực thăng tham gia chiến dịch được tập hợp từ các căn cứ không quân khác nhau đến sân bay Udorn.
Trong 100 lính đặc nhiệm, người ta đã chọn ra 56 người để trực tiếp tham gia thực hiện sứ mệnh giải cứu. Đối với 44 người còn lại thì tin này là một liều thuốc đắng.
Họ đã nhận được thông điệp “Tên lửa đỏ”, có nghĩa là tổng thống Nixon đã có phê chuẩn cuối cùng đối với việc tiến hành chiến dịch. Tuy nhiên, việc tiến hành chiến dịch trong đêm 20, rạng sáng 21/11 đã suýt nữa bị đổ bể. Theo dự báo của các chuyên gia khí tượng, một cơn bão hình thành ở khu vực Philippines sẽ đến khu vực miền Bắc Việt Nam đúng vào đêm 20, rạng sáng 21/11. Bởi vậy, người ta quyết định đẩy sớm thời gian bắt đầu chiến dịch lên sớm 24 giờ và bắt đầu thực hiện chiến dịch vào ngày 20/11. Chỉ huy chiến dịch thông báo cho các thành viên tham gia về việc thay đổi ngày D.
Trước khi xuất phát
Việc cập nhật nhiệm vụ lần cuối được tiến hành vào ngày 20/11. Tất cả các những người tham gia đều đã nắm được vị trí chính xác của mục tiêu và việc tại trại giam Sơn Tây có từ 70-80 tù binh Mỹ, chủ yếu là phi công lái máy bay và trực thăng bị bắn rơi.
Sau khi chắc chắn tất cả đã sẵn sàng cho việc mở màn chiến dịch, chỉ huy tất cả các phân đội tập trung tại sở chỉ huy trên núi “Khỉ”. Tại đây, ngoài Chuẩn tướng Manor, chỉ huy trưởng chiến dịch, còn có các sĩ quan của nhóm tham mưu: Morris, Peshkin, Newman, Knops và Willett.
Kraljev ở căn cứ không quân Takhli, còn Ropka ở Udorn. Cả hai duy trì liên tục liên lạc với chỉ huy chiến dịch. Trong khi đó, Frisbie cùng một nhóm nhỏ sĩ quan thì ở trên chiếc máy bay tiếp sức vô tuyến điện bay trên trời. Trong trường hợp sở chỉ huy chính bị mất khả năng chỉ huy thì nó có thể nhận về mình vai trò chỉ huy chiến dịch và hoạt động với tư cách sở chỉ huy trên không.
Nhân viên tham mưu tình báo Art Andraitus ở Nhật Bản và theo dõi các bức ảnh nhận được từ một máy bay trinh sát SR-71.
Ngày 20/11 được tuyên bố là ngày nghỉ cho các thành viên tham gia chiến dịch. Bác sĩ Joe Cataldo phát thuốc ngủ cho binh sĩ để họ có thể ngủ nghỉ đẫy giấc ban ngày.
Lúc 22 giờ 00, lính đặc nhiệm lên khoang chiếc С-130 và cất cánh bay khỏi Takhli tới căn cứ không quân Udorn ở miền bắc Thái Lan. Tại đây, họ tiếp nhận 2 trực thăng HH-53C và 1 trực thăng HH-3, cẩn thận kiểm tra lại trang thiết bị trên khoang của chúng.
Một lúc trước nửa đêm 20/11/1970, tại căn cứ không quân, các tổ lái vào vị trí trên các máy bay. Lính Mũ nồi xanh lên khoang.
Tại 7 căn cứ không quân và 3 tàu sân bay có mặt 116 máy bay và trực thăng để tham gia chiến dịch.
Thời tiết thật đẹp. Chỉ huy báo cáo về việc sẵn sàng cho chiến dịch và hạ lệnh bắt đầu chiến dịch. Lúc 23 giờ 18, các trực thăng bắt đầu khởi động động cơ.
Trên không, 2 máy bay tiếp dầu HC-130 dẫn đầu các trực thăng để tiếp dầu trên không mà dự kiến được tiến hành trên không phận Bắc Lào. Máy bay tiếp dầu đi đầu có mật danh Lime 01, trực thăng HH-3 có mật danh Banana, còn 5 chiếc HH-53 còn lại có mật danh Apple từ 01 đến 05. Các máy bay lập thành đội hình chiến đấu gồm 7 chiếc: Đi đầu là máy bay tiếp dầu, tiếp sau bên phải và bên trái, mỗi bên có 3 trực thăng. Cả đội hình bay ở độ cao 450 m trên mặt đất.
Cơ trưởng chiếc HC-130 có mật danh Lime 01 đi đầu, Bill Kornitzer: “Sứ mệnh của chúng tôi bắt đầu từ căn cứ không quân Udorn. Chúng tôi phải gặp 6 trực thăng và dẫn chúng đến biên giới Bắc Việt. Sau khi gặp mà không có trục trặc gì, chúng tôi tiếp dầu cho 5 chiếc HH-53 và 1 chiếc HH-3. Việc đó đã được làm trong sự yên lặng hoàn toàn mà không có sự cố nào. Tiếp đó, HH-3 vẫn ở gần và phía sau cánh bên trái của chúng tôi để duy trì tốc độ của cả đội hình chiến đấu. Sau khi các trực thăng rời đi thực hiện nhiệm vụ chính, chúng tôi lập tức quay trở lại Udorn để nạp dầu mà chúng tôi phải làm càng nhanh càng tốt để sau đó có thể thực hiện tiếp dầu trên không cho cả các tốp tìm/cứu khi cần. May mắn là thời tiết tại khu vực tiếp dầu quang đãng. Tất cả các máy bay tiếp dầu đều thực hiện nhiệm vụ mà không gặp khó khăn gì”.
Sau đó, các trực thăng được chiếc MC-130 Cobat Talon dẫn đầu bay ở độ cao nhỏ tiến sang Bắc Việt. Lãnh thổ Lào trập trùng núi non, đòi hỏi phải có sự dẫn đường chính xác từ tổ lái chiếc MC-130.
Nhiệm vụ không trợ trực tiếp được giao cho các cường kích А-1 vốn cực kỳ thích hợp với nhiệm vụ này vì chúng có thể mang nhiều đạn dược. Ngoài ra, ở tốc độ tương đối thấp, chúng có thể hoạt động ngay sát khu vực chiến dịch và có sự hỗ trợ cần thiết cho lực lượng đổ bổ trong thời gian thật ngắn. Bởi vậy, không lâu sau, 5 chiếc cường kích А-1 cất cánh từ Nakhon Phanom và sắp hàng sau chiếc MC-130 Combat Talon thứ hai. Chúng bay sát chiếc máy bay đi đầu đang dẫn dắt các trực thăng bay ở độ cao nhỏ.
Để bảo vệ các đội hình chiến đấu chống các tiêm kích MiG của Việt Nam tập kích, từ một căn cứ không quân xuất kích 10 tiêm kích F-4 Phantom, còn từ căn cứ không quân Korat cất cánh 5 chiếc F-105 Wild Weasel để bảo vệ chống tên lửa phòng không đối phương. Các máy bay F-4 và F-105 bay ở độ cao lớn, bao quát một khu vực rộng lớn tiến hành chiến dịch và sẵn sàng can thiệp khi cần thiết.
Khi tốp máy bay tiến gần biên giới miền nam Việt Nam, từ các tàu sân bay thuộc Lực lượng đặc nhiệm chiến dịch của Hải quân Mỹ, các máy bay cất cánh bay đến biên giới Lào-Bắc Việt Nam. Các radar của Bắc Việt phát hiện tổng cộng 59 lần chiếc. Hoạt động trên không cường độ cao của Mỹ ở vịnh Bắc Bộ đã khiến Bắc Việt lo ngại và lúng túng mặc dù họ đã chờ đợi các máy bay Mỹ tiến vào từ hướng đông.
Trong lúc đó, một phân đội biệt kích xâm nhập trót lọt vào lãnh thổ Việt Nam từ hướng Tây.
(Còn tiếp)