Vietnamdefence.com

 

John Caircross: Người thứ năm

VietnamDefence - Sir John Calwill, bí thư riêng của Churchill, đã đúng khi cho rằng Cairncross là người "rất thông minh, mặc dù đôi khi còn là kẻ buồn tẻ khó hiểu". Thế mà "kẻ buồn tẻ" ấy lại rất giỏi trong việc lấy từ két sắt và chuyển cho tình báo Liên Xô những tài liệu bí mật nhất.

John Cairncross

Ông mất trong một buổi chiều tháng 10 năm 1995 ở tuổi đã rất cao, 80 tuổi. Những năm cuối đời thật là kinh khủng: ông bị hành hạ không chỉ bởi tuổi già buồn tẻ đang giết dần giết mòn ông, cái tuổi già tuy có được tô điểm chút ít nhờ có người vợ mới còn trẻ, mà còn bị sự ồn ào xung quanh tên tuổi ông giày vò, làm khổ.

Vào năm 1951, khi mà ông nhận lời với phản gián, bỏ việc nhà nước, gạt nước Anh già nua yêu dấu sang một bên và ra đi, ông những tưởng đã đoạn tuyệt được với quá khứ và nó không bao giờ trở lại nữa.

Nhưng không phải thế! Ban đầu, Peter Wright, trợ lý chỉ huy phản gián Anh (MI-5, tức Secrete Service/SS) nhắc đi nhắc lại tên ông, sau đó đã trắng trợn vi phạm mọi nguyên tắc nghề nghiệp và đã xuất bản những cuốn sách động trời vào cuối những năm 80.

Thực ra, bà Thatcher đã cấm những sách này ở Anh, cho mở một phiên toà ầm ĩ và kẻ vi phạm luật im lặng đã phải sống nốt những ngày tàn của mình ở nước Australia xa xôi, nhưng điều đó có ích lợi gì?

Một lần nữa, các phóng viên lại lao bổ đến ông, lại vẫn đưa ra mỗi một câu hỏi ấy: ông có phải thành viên thứ năm của "Bộ năm Cambridge" lừng danh không? Ai là người đã tuyển mộ ông: Philby hay Blunt? Hay là chính người Nga? Mẹ kiếp, làm gì có "người thứ năm"! Chỉ mỗi một trường tổng hợp Cambridge đã sản sinh ra không dưới một tá điệp viên Nga, chứ chưa cần nói tới trường Oxford, đúng là lịch sử đang im lặng về điều đó. Và ơn Chúa.

Sau Peter Wright, vụ của ông lại bị khuấy động ban đầu là bởi người bạn Blunt, còn sau đó vào đầu những năm 90 là bởi tên Gordievski đào thoát sang phương Tây - tên này đã không bỏ phí thời gian ở Moskva, tìm cách bảo đảm cho mình một tương lai khấm khá, đã đào bới các tư liệu lưu trữ và sau đó ghi tất cả ra giấy.

Và một lần nữa vòng quay ngựa gỗ lại quay đi: ai là người thứ năm? Các phóng viên bay đến Provence tới tấp như ruồi, một tên súc sinh đã phục kích ông, lao vọt ra từ trong một xó với máy quay camera trên tay và hỏi thẳng: ông có phải là người thứ năm không? Tất nhiên là ông nói rằng tất cả điều đó là lời nói bậy, là sự bịa đặt ác ý, là sự vu khống. Ông đứng như thế ở trong khuôn hình, gầy guộc với gương mặt tức giận và buồn bã, cứ đúng và nói: tôi không có gì bình luận, chẳng có gì hết, tôi chẳng làm việc cho người Nga!

Trong những trường hợp như thế, người ta thường kiện ra toà vì tội vu khống, nhưng liệu ông có thể làm điều đó không khi mà phản gián Anh biết rằng, ông là một trong những điệp viên Xôviết hiệu quả nhất?! Là người thứ năm cũng được nếu đám công chúng ngu ngốc muốn thế, cái đám người đang nuốt tất cả những gì báo chí nhét vào mõm họ.

Lại còn những hồi ký của các nhân viên KGB (Uỷ ban An ninh quốc gia Liên Xô, cơ quan tình báo chủ chốt của Liên Xô trước đây, bị giải tán ngày 11 tháng 10 năm 1991) cũ tuôn ra như nấm độc với cái trò công khai ngu xuẩn của Gorbachev nữa và một lần nữa tên ông lại xuất hiện, mặc dù không có những chi tiết thừa...

Bản thân ông cũng bắt tay vào viết hồi ký, song việc viết lách tiến triển chậm chạp, ông nghĩ về cái chết, về nước Pháp, nơi ông sống dã nhiều năm, bỗng bắt đầu run sợ, ông nhớ lại rằng những chiến hữu trong "Bộ năm" là Donald Maclean và Guy Burgess đã lệnh cho ông phải đem hài cốt của họ từ Moskva tới vùng Albion khắc nghiệt. Nếu còn sống, họ sẽ bị bắt ngay lập tức và tống vào xà lim cho đến mạt đời, còn hài cốt... kiểu tr thù nhằm vào hài cốt chỉ có ở nước Nga ngu xuẩn này thôi.

Từ lý tưởng đến làm tình báo

Phía trước là cả tương lai sự nghiệp khoa học sáng chói, là chiếc áo choàng và chiếc mũ vuông đen của giáo sư, là sự thừa nhận của những độc gi và sinh viên mến mộ.

Có lẽ ông cũng đã muốn như thế nhưng trái tim Scoltland đã không cho phép. Tại Glasgow, nơi ông đã lớn lên đầy rẫy cảnh nghèo đói không thể tưởng tượng được với London trong những năm đó, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã giáng mạnh vào nước Anh, quan hệ xã hội trong nước trở nên căng thẳng, ở Đức chủ nghĩa phát xít ngóc đầu dậy lăm le chuẩn bị thôn tính cả châu Âu. Những lý tưởng cộng sản đã ngấm sâu vào con tim của chàng trai trẻ, những lý tưởng ấy xâm chiếm ông và thậm chí ông đã gia nhập đảng cộng sản. Tưởng chừng không ai, ngoài những người cộng sản và nhà nước vô sản vĩ đại đầu tiên trên thế giới, mặc dù còn bí hiểm, mới có thể chấm dứt sự bất công xã hội trong nước và chặt đầu những kẻ đại diện cho "trật tự thế giới mới".

Người giảng khoá học văn học Pháp ở Cambridge cho Cairncross chính là Anthony Blunt, chính là Blunt ấy, người là một trong những điệp viên của "Bộ năm", người đã phục vụ trong phản gián Anh và trong các phòng/ban trọng yếu của cơ quan này và cuối cùng đã trở thành người quản lý các bảo tàng hoàng gia và một trí thức được sủng ái trong hoàng cung của Nữ hoàng cao quý.

"Về công việc của mình từ năm 1937 cho đến đầu chiến tranh, có thể nói rằng, tôi hầu như chẳng làm gì - Blunt viết như vậy trong một báo cáo tin gửi về Moskva vào năm 1943. - Tôi chỉ mới bắt đầu làm việc và cố gắng hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng: tạo cảm tưởng rằng tôi không chia xẻ những quan điểm thiên tả., mặt khác cố gắng duy trì quan hệ chặt chẽ với những sinh viên thân tả mà trong số đó có thể có những tài năng mà chúng ta quan tâm. Như các anh đã biết, tôi đã tuyển được các đồng chí sau: M.S. và L.L. Tôi cũng được yêu cầu thiết lập quan hệ với C. (Cairncross) và tôi đã làm điều này cho B. (Burgess)".

Vậy mà ông nói là chẳng làm gì! Cầu trời cho mỗi tình báo viên có thể làm được "cái chẳng làm gì" ấy!

Không ai trong "Bộ năm" coi mình là điệp viên Xôviết, tất cả họ đều xem mình là những người cộng sản và những người của Quốc tế Cộng sản, họ không mặn mà lắm với hoạt động bí mật (đâu có phải là gián điệp!) và công khai trao đổi thông tin về việc ai và làm việc gì cho tình báo Liên Xô, có vẻ như một phòng của Quốc tế Cộng sản.Blunt đã chuyển Cairncross sang liên hệ với thành viên khác của "Bộ năm" là Guy Burgess để tiếp tục tìm hiểu, xây dựng; sau đó đến một tình báo viên bất hợp pháp Xôviết là Arnold Deutsch, cán bộ tình báo về nhân sự nhập cuộc và Arnol Deutsch đã tuyển Cairncross và đặt bí danh cho anh là Moliere.

Tiện thể cũng nói thêm là trong bảng thành tích của vị tiến sĩ Czech gốc Do Thái thông minh và trầm lặng Deutsch, người đã bị bọn SS sát hại vào năm 1942, có rất nhiều hồ sơ tuyển mộ cực kỳ quý giá (chỉ riêng ở Anh là khoảng 20 hồ sơ), điều mà gộp tất cả các vị tướng tình báo Liên Xô cũng không tài nào làm được. Thế chúng ta biết gì về người anh hùng ấy? Chỉ có một tấm biển lưu niệm tại ngôi nhà ở Viena, nơi ông đã sống, trên tấm biển đó có ghi công lao của ông trong cuộc kháng chiến chống bọn quốc xã và giải phóng nước Áo.

Trong vụ tuyển mộ Cairncross, đảng viên cộng sản Klougman cũng đã đóng một vai trò không nhỏ - trong những năm đó, tất cả các đảng cộng sản đều coi việc làm việc cho tình báo Xôviết là nghĩa vụ vô sản của mình.

Trong hang cọp

 Theo nguyên tắc hoạt động bí mật, vào năm 1936, khi đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Cambridge, Cairncross đã cắt đứt liên hệ với đảng cộng sản, bắt đầu tăng cường thể hiện những quan điểm ái quốc của mình và đã hoàn thành xuất sắc các môn thi nói tại Foreign Office (Bộ Ngoại giao Anh) và giành điểm cao hơn tất cả. Như vậy, tình báo Xôviết đã có thêm một điệp viên nữa trong Bộ Ngoại giao Anh.

Thực ra thì Cairncross không có cơ hội củng cố tại một vị trí, tới năm 1938, anh đã phải chuyển vị trí công tác qua các phòng Mỹ, phòng phương Tây và phòng trung ương của Bộ Ngoại giao Anh. Về tính chất, khác với các điệp viên khác của "Bộ năm", anh không phải là người quảng giao, rất chật vật trong việc mở quan hệ, Sir John Calwill, bí thư riêng của Churchill, đã đúng khi cho rằng Cairncross là người "rất thông minh, mặc dù đôi khi còn là kẻ buồn tẻ khó hiểu". Thế mà "kẻ buồn tẻ" ấy lại rất giỏi trong việc lấy từ những két sắt và chuyển cho các sĩ quan hoạt động của tình báo Liên Xô những tài liệu bí mật nhất, ông thậm chí còn có điểm yếu là hay lấy nhiều tài liệu nên gây ra nhiều điều bất tiện cho công tác giao thông.

Năm 1938, theo sáng kiến của Trung ương (Cách gọi riêng chỉ trung ương điều hành một cơ quan tình báo. Nói một cách chính xác hơn là bộ phận ra các chỉ thị và nhận báo cáo của các nhân viên tình báo), Cairncross chuyển sang Bộ Tài chính Anh, nơi mà tình báo Xôviết chưa "vươn tới" được, đồng thời là nơi lưu giữ nhiều bí mật không kém gì Foreign Office.

Tiện đây, cũng xin lưu ý rằng, từ năm 1938 đến cuối năm 1940, "Bộ năm" huyền thoại, trong đó có Cairncross, và nhiều điệp viên khác đã bị mất liên lạc với Trung ương vì các sĩ quan tình báo chỉ huy họ đã bị triệu hồi về Moskva và nhiều người trong số đó đã bị xử bắn.

Năm 1940, Cairncross trở thành thư ký riêng của một thành viên nội các là Huân tước Hankey, người được quyền tất cả những tài liệu bí mật nhất của nội các và các bộ chủ chốt. Cairncross vẫn không khắc phục được "nhược điểm" của mình và như người ta thường nói, ông vẫn "khuân đến hàng tấn tài liệu"!

Hankey cũng chỉ đạo một uỷ ban tư vấn khoa học gồm những nhà khoa học nổi tiếng của Anh và điều phối các dự án khoa học liên quan đến quân sự; tin tức tình báo khoa học-kỹ thuật được lấy ra chính từ đây. Điều đáng chú ý là khi chính phủ thời chiến của Churchill hạn chế luồng công điện ngoại giao đến văn phòng Hankey, Hankey và Cairncross đã khiếu nại với Bộ Ngoại giao và thế là biện pháp hạn chế được dỡ bỏ.

Thông tin lấy trực tiếp từ chính phủ thời chiến của Anh có sử dụng cả những bức điện mã hoá của Đức mà Anh chặn thu được đã cho thấy rõ Hitler chuẩn bị chiến tranh chống Liên Xô. Nhưng Stalin đã không tin vào những lời cảnh báo của kẻ thù độc ác nhất của chính quyền Xôviết là Churchill, lý trí mù quáng đã không nghe theo những báo cáo tin từ các điệp viên của ông. Đối với những báo cáo như vậy, Stalin thường viết nhận xét: "Khiêu khích của Anh. Kiểm tra lại!" Việc Hess (Rudolf Hess (1894-1987), nhân vật số hai trong đảng quốc xã của Hitler, trở thành nhân vật số ba của Đế chế thứ ba (Reich), tức nước Đức phát xít, ngay sau Hitler và Goering, vào năm  1939. Chạy sang Anh năm 1941, bị giam cho đến khi Toà án Nuremberg năm 1945-1946 kết án tù chung thân và tự sát năm 1987 trong nhà tù Spandau, Tây Berlin) bí mật bay sang Anh với ý đồ rõ ràng là định ký hiệp ước hoà bình riêng rẽ với nước Anh (cho đến nay, người Anh vẫn chưa công bố tất cả những tư liệu liên quan đến vụ việc này) càng làm cho Stalin thêm nghi ngờ.

Cairncross làm việc với Huân tước Hankey cho đến tận khi vị bộ trưởng này về hưu vào tháng 3 năm 1942, tình báo Xôviết rất hài lòng với hoạt động của Cairncross.

Ngay trong đầu não bộ máy nhà nước Anh  

Cần lưu ý rằng, trong thời gian chiến tranh, do ách chiếm đóng của Đức đối với nhiều nước, do sự đổ vỡ của các trạm tình báo và việc tăng cường truy tìm các điện đài bí mật bằng radar, vấn đề liên lạc với điệp viên đã trở thành vấn đề ưu tiên số một. Do đó, London với lưới điệp viên Xôviết mạnh và đường liên lạc tin cậy qua sứ quán đã trở thành một nguồn cung cấp tin quan trọng, trong đó có cả thông tin về dự án bom nguyên tử. Số phận đã mỉm cười với Cairncross vì anh đã lọt được vào ngay vào đầu não của bộ máy nhà nước - Cục Cơ yếu Anh quốc, nằm ở vùng Bletchley Park và nổi danh về tài "bẻ khoá" mật mã những nước khác. Mặc dù Cairncross chỉ làm việc tại đó có 1 năm với công việc phân tích các bản mật mã chặn thu được của Không quân Đức (Luftwaffe), nhưng sự có mặt của anh lại trùng với cuộc tiến công của Hồng quân.

Chính anh cũng xem thời kỳ đó là giờ phút sáng chói định mệnh của mình. Anh lấy tài liệu từ Bletchley Park để đem về London vào những ngày nghỉ trên chiếc xe ôtô cũ mua bằng tiền của trung tâm điệp báo Liên Xô.

Ngay trước trận đánh ở vòng cung Kursk, Cairncross đã báo tin về bố trí của 17 sân bay Đức để không quân Liên Xô bất ngờ oanh tạc các sân bay này. 500 máy bay Đức đã bị diệt, không thể tính được số chiến sĩ Hồng quân có lẽ đã được cứu mạng nhờ người Scotland dũng cảm này.

Lập dị và ngang ngạnh

Anh khá khó tính, anh không thể dừng lại ở đâu được lâu. Đúng là những lần "thuyên chuyển" của anh diễn ra rất dễ dàng, cứ như là có các tình báo viên Liên Xô đang làm việc ở phòng nhân sự: sau thời gian phục vụ tại Cục Cơ yếu, anh vào làm việc cho tình báo Anh - Cục Tình báo Anh SIS, và anh làm việc ở đây cho đến khi chiến tranh kết thúc.Xếp của anh, David Footman đã thấy ở người thuộc cấp của mình một con người "lập dị và ngang ngạnh", và ông ta đã đúng phần nào: Cairncross không trụ được lâu trong ngành tình báo và trở về Bộ Tài chính, nơi anh đã công tác ở các phòng ban có liên quan với Bộ Quốc phòng Anh. Cairncross nắm được tất cả những bí mật trong việc thành lập và cung cấp tài chính của khối NATO - Bộ Tài chính Anh nuôi sống toàn bộ những huyết mạch của đất nước mà - vì thế tình báo Liên Xô không thấy nuối tiếc về việc Cairncross rời khỏi SIS, hơn nữa tại đó Kim Philby đang hoạt động rất hiệu quả.

Sự tẻ nhạt với tính cách nặng nề không đem lại sự thành đạt lớn về đường công danh, nhưng được cái cứ tháng một lần, anh cung cấp cho trung tâm điệp báo những tài liệu mật. Cũng xin bổ sung là vào năm 1945, khi người ta báo cáo thành tích, nhất là trong thời kỳ chiến tranh, của Cairncross cho Stalin, lãnh tụ Xôviết đã quyết định cấp cho anh khoản tiền hàng năm 1000 bảng Anh - theo thời giá hiện nay là gần 30.000-40.000 đô la Mỹ, đó hoàn toàn chẳng phải là quá nhiều đối với một điệp viên tầm cỡ như thế, hơn nữa, tình báo Liên Xô không phải là cơ quan quen vung vãi tiền bạc.

Nhưng Cairncross đã từ chối nhận tiền. Nói chung thì cả "Bộ năm Cambridge" đều cực kỳ nguyên tắc đối với sự hỗ trợ vật chất, họ làm việc vì Lý tưởng, họ chỉ lấy tiền để chi cho công tác nghiệp vụ.

Trong hồ sơ của Moliere luôn có ý cho rằng, anh đã bất mãn với việc làm cho tình báo Xôviết, cho rằng, anh đã làm được ít. Lương tâm của anh bị cắn rứt vì dường như đóng góp của anh cho chủ nghĩa cộng sản là quá ít ỏi. Nói lên điều đó chính là con người đã dũng cảm và vô tư không vụ lợi trao cho chúng ta vô số những thông tin quý giá nhất! Đó chính là điều ngạc nhiên cho những ai coi sức mạnh đồng tiền là trên hết!

Sấm giữa trời quang

Chuyện không may xảy ra rất bất ngờ, họ cũng đã phỏng đoán là sẽ có việc truy tìm "những con chuột chũi" ở Anh nhưng tất cả đã bắt đầu thật đột ngột.Tất cả các quốc gia kể cả hiện nay cũng đều muốn khám phá mật mã của nước khác. Vào cuối chiến tranh, một số sổ mật mã của Hồng quân mà người Phần Lan bắt được lọt vào tay các nước đồng minh và họ đã nghiên cứu chúng để giải mã các bức mật điện của Liên Xô. Nhân đây cũng xin bổ sung những tin tức chung chung, không chỉ rõ họ tên về các điệp viên Liên Xô do các điệp viên phương Tây và bọn đào ngũ cung cấp.

Vào cuối chiến tranh, các cơ quan cơ yếu của Liên Xô đã phải làm việc với tải rất lớn và các nhân viên cơ yếu đã không luôn luôn tuân thủ những quy định chung về cơ yếu. Có một số trường hợp, người ta đã dùng cùng một trang sổ mã để mã - đó là điều hoàn toàn không được phép.

Như vậy, các cơ quan đặc vụ phương Tây đã có được khoá để giải mã các bức điện của Bộ Dân uỷ Nội vụ Liên Xô (NKVD) (tất nhiên là tất cả các bức điện này đều được ghi từ làn sóng điện vào băng từ) và họ đã bắt đầu công việc ngay sau chiến tranh với chiến dịch mang tên Venona. Tuy nhiên trong các bức điện, họ chỉ đụng phải những tên lóng nên không thể biết được lý lịch và tình hình của các điệp viên. Tình báo phương Tây đã phải mất nhiều năm để giải mã và hệ thống hoá tất cả những tài liệu thu được và cố khoanh vùng những người có quyền tiếp cận đến thông tin và tài liệu mật.
Bại lộ

Mãi đến năm 1951, người ta mới lần ra được một thành viên của "Bộ năm Cambridge" là quan chức ngoại giao cấp cao Donald Maclean. Thật may mắn là Kim Philby đã nắm chắc được tình hình và cảnh báo cho Trung ương và các đồng đội của mình. Maclean và Burgess đã cấp tốc chạy khỏi Anh sang Liên Xô. Anthony Blunt đã lao ngay đến căn hộ chất đầy giấy tờ của Burgess để cố lấy đi tất cả những gì có thể làm lộ anh và các điệp viên còn lại.Khốn nỗi Blunt đã chẳng thể tìm ra trong đống tài liệu hổ lốn mà anh chàng Burgess vốn chẳng bao giờ cẩn thận thu thập những bản ghi các cuộc nói chuyện ở Whitehall do chính tay Cairncross ghi từ trước chiến tranh, và phản gián Anh đã tìm thấy những tài liệu này.Việc theo dõi ngoài gắt gao đối với Cairncross chẳng đem lại kết quả gì, mặc dù, theo kết luận của phản gián, ông có đi liên lạc bí mật, nhưng không bắt quả tang được ông gặp gỡ với tình báo Liên Xô. Trên thực tế, theo hồ sơ của KGB, việc liên lạc vẫn thực hiện được khi thoát khỏi sự giám sát của nguời Anh. Bởi vậy, Trung ương luôn nắm rõ được mọi diễn biến tình hình.

Các cuộc thẩm vấn nặng nề bắt đầu, nhưng ông đã chọn giải pháp đối phó đúng đắn: khẳng định ông không phải là gián điệp Liên Xô, quả thật có đưa cho Burgess các tờ ghi chép, nhưng làm sao ông biết được anh ta có liên hệ với người Nga? Cairncross đã bị đuổi việc mà không được nhận một khoản lương hưu nào, ông sang Mỹ, sau đó tới Roma và ở đó ông làm cho Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc. Sức khoẻ của ông không được tốt, ông có những rối loạn thị giác và thính giác.

Cuộc săn tìm vẫn tiếp tục

Cuộc chạy trốn của Maclean và Burgess, sự bại lộ trên thực tế của Philby, Blunt và Cairncross đã nhấn tình báo Anh xuống bùn đen. Người Mỹ đã tỏ ra e ngại khi làm việc với cơ quan tình báo lẫy lừng này vì họ cho rằng ở đó có nhung nhúc các "con chuột chũi". Tuy vậy, các cơ quan tình báo đã không có đủ tài liệu để chuyển vụ việc sang toà án, hơn nữa họ cũng không quan tâm đến việc công khai rửa sạch bộ mặt của mình. Những người Anh sáng suốt đã quyết định không thổi phồng vụ việc, nhưng vẫn tiếp tục tích cực tìm kiếm các chứng cứ không chỉ về "bộ năm" mà cả về những quan chức Anh đáng ngờ khác, kể cả xếp của chính cơ quan phản gián Anh - Sir Roger Hollis.

Năm 1963, sau khi một tên phản bội của KGB chạy sang phương Tây, Philby đã lẳng lặng sang Liên Xô mà không hề thú nhận gì cả. Thế là kể cả những người đã ngờ vực Philby hoạt động cho tình báo đối phương cũng hiểu rằng, sự kiện này đã gây nên những giông tố trong các cơ quan tình báo: chẳng lẽ không phải là quá láo xược khi mà tất cả những con chim đó, sau khi đã gây ra những hành động tội ác chưa từng có ở nước Anh lại yên ổn chuồn mất ngay trước mũi?

Quỷ tha ma bắt, nếu họ mà còn chẳng đưa được ra toà thì còn có thể lôi được ai nữa!

Trong sự o ép của người Anh

 Năm 1964, phản gián Anh đã sờ đến gáy Anthony Blunt và hứa không mở bất kỳ một cuộc điều tra nào nếu như ông thú nhận và khai ra tên những điệp viên Liên Xô mà ông biết. Blunt đã khai tên Cairncross và King, người đã qua đời. Nhờ vậy, Blunt vẫn giữ được chức vụ cao của mình trong triều đình Hoàng gia Anh.Nhân viên phản gián lừng danh của Anh Arthur Martin đã cấp tốc bay sang Roma và ông cũng hứa bảo đảm quyền bất khả xâm phạm nếu Cairncross thú tội. Cairncross không phủ nhận vai trò của mình, nhưng lại nhấn mạnh rằng, ông làm tất cả là vì lý tưởng chung chống phát xít trong thời gian chiến tranh.

Với Blunt và Cairncross, phản gián Anh hiểu rằng, các cuộc thẩm vấn này chỉ nhằm một mục đích quan trọng hơn là tìm ra những "chuột chũi" còn chưa bị lộ trong bộ máy nhà nước Anh. Người ta đề nghị Cairncross gặp gỡ với đảng viên cộng sản cao tuổi Klougman, người từng là một trong những người tuyển mộ Cairncross và là người đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thiết lập lưới tình báo Xôviết tại Anh. Phản gián Anh muốn thông qua Cairncross để tiếp cận với Klougman và moi từ ông này những cái tên mới, nhưng Klougman đã từ chối cuộc gặp với các nhân viên tình báo Anh.

Hồi kết

Sau đó, những dấu vết của một điệp viên đắt giá dần bị xoá nhoà, báo chí không còn viết về ông nữa, các cơ quan tình báo thấy không còn lý do để tiếp tục thẩm vấn, ông không liên hệ với KGB từ năm 1951, Cairncross lặng lẽ làm việc cho hoạt động của Liên Hiệp Quốc và lấy làm mừng vì không tổn hại gì sau tất cả những rắc rối này.

Tính ông hay bẳn gắt, kín đáo, sở thích là đọc, ông chẳng mấy quan tâm đến người khác.Tuổi già đã đến với ông từ thời còn ở Provence, cũng chính ở đó ông bị bọn báo chí đáng nguyền rủa hành hạ, ông chuyển tới miền Tây Anh để vĩnh biệt cuộc đời.

Ông nghĩ gì trong những năm cuối đời? Ông có tiếc nuối quá khứ không? Ông có vui mừng với cuộc cải tổ ở Liên Xô không? Hay là, trái lại, ông hy vọng một lúc nào đó sẽ có chủ nghĩa cộng sản tràn trề hạnh phúc, cái mà ông đã cống hiến những năm tháng tươi đẹp nhất đời mình? Ông có oán trách không khi tất cả xa lánh, bỏ rơi ông? Hay là ông sống an phận thủ thường với người vợ trẻ, nốc thứ rượu Whisky quê hương, nhổ toẹt vào tất cả những trò gián điệp; bởi vì cuộc sống là một cái mà khi vào tuổi hơn 70 người ta cảm nhận nó sâu sắc hơn khi còn trẻ.

Chúng ta đã không bao giờ biết được về điều đó nữa.

Print Print E-mail Print