VietnamDefence -
Đầu thập niên 1930, nhờ hiện tượng mà trong thực tế điệp báo có tên gọi là “điệp viên xuất hiện tình cờ”, OGPU thành công trong việc phá giải các mật mã ngoại giao của Anh và lần đầu tiên xâm nhập vào Foreign Office (Bộ Ngoại giao Anh).
Năm 1929, Ernst Halloway Oldham, nhân viên cơ yếu của Cục Thông tin liên lạc Bộ Ngoại giao Anh khi đó đang ở Paris cùng phái đoàn thương mại Anh đã đến cơ quan tuỳ viên quân sự Liên Xô, tự xưng là Scott và xin gặp tuỳ viên quân sự. Thay vì gặp tuỳ viên quân sự, ông ta đã được sĩ quan OGPU Vladimir Voinovich, tự xưng là thiếu tá Vladimir, tiếp. Oldham nói anh ta làm việc ở Foreign Office và có mang theo mật mã ngoại giao của Anh mà ông ta chào mời tình báo Liên Xô mua với giá 2 ngàn đô la Mỹ.
Voinovich đã nhận mật mã mang biến sang phòng bên và chụp ảnh mật mã này. Nghi ngờ đây là vụ khiêu khích, Voinovich đã quay lại với Oldham đang chờ và ra vẻ tức giận buộc tội ông ta lừa đảo và đuổi ông ta khỏi sứ quán.
Tại Moskva, các chuyên gia mã thám Liên Xô đã xác định mật mã do Oldham mang đến là thật. Trung ương tình báo đã cảnh cáo nghiêm khắc Voinovich vì anh ta đã không trả tiền cho Scott và không thiết lập liên lạc với ông ta. Voinovich đã nhận được từ Trung ương tình báo 2000 đô la và mệnh lệnh trả số tiền này để khôi phục quan hệ với Scott. Thật đáng hổ thẹn cho Voinovich là cả nhân viên Cheka được anh ta giao nhiệm vụ theo dõi Oldham khi ông này từ sứ quán Liên Xô trở về nhà lại ghi sai địa chỉ và không nhớ được chỗ ở của Scott.
Phải nhờ nhiều nỗ lực trong thời gian dài của Hans Galleni, một tình báo viên bất hợp pháp của OGPU ở Hà Lan, tình báo Liên Xô mới tìm ra Oldham ở London vào năm 1930. Galleni đã chặn Oldham trên đường từ cơ quan về nhà, gọi tên ông ta và nói một đoạn ngắn chuẩn bị sẵn: “Tôi tiếc là chúng ta đã không gặp nhau ở Paris. Tôi đã biết sai lầm nghiêm trọng của thiếu tá Vladimir. Anh ta đã bị đuổi việc và kỷ luật. Tôi đến để đưa cho ông cái ông có quyền hưởng”. Vừa nói, Galleni vừa giúi vào tay Oldham chiếc phong bì, rồi đi ngang đường và biến mất trong đám viên chức. Những người đi ngang thấy Oldham ôm ngực, khuỵu gối đã vội chạy đến giúp đỡ. Oldham bối rối làu bàu mấy lời cảm ơn, rồi đi về nhà. Về đến nhà, mở phong bì, ông ta thấy có 2 ngàn đô la và chỉ dẫn liên lạc lần tới với Galleni.
Oldham đã đến cuộc gặp tiếp theo với ý định từ chối làm việc cho Galleni. Nhưng Galleni đã thuyết phục được Oldham lại nhận tiền và cung cấp thông tin mới về các loại mật mã và chế độ bảo mật của Foreign Office, cũng như về các đồng nghiệp của ông ta trong Cục Thông tin liên lạc. Mặc dù Galleni đã cố động viên Oldham bằng cách mời vợ chồng ông ta đến những nhà hàng đắt tiền, nhưng cuộc sống hai mặt là quá căng thẳng đối với ông. Tháng 9 năm 1933, người ta phát hiện thấy Oldham trong tình trạng bất tỉnh trên sàn nhà tắm ở nhà mình và đưa ngay tới bệnh viện. Nhưng ông đã chết trên đường đi. Điều tra cho thấy Oldham, trong trạng thái tâm thần kích động, đã tự sát bằng cách đầu độc bằng gas.
OGPU đã lợi dụng thông tin do Oldham cung cấp về các nhân viên của Cục Thông tin liên lạc của Foreign Office để thực hiện vụ tuyển mộ mới. Hai tình báo viên bất hợp pháp của OGPU đã được phái đến Geneva, nơi có một số đồng nghiệp của Oldham làm nhân viên cơ yếu trong phái bộ Anh ở Hội Quốc Liên. Một trong hai cán bộ tình báo bất hợp pháp này là một cựu thuỷ thủ từng sống ở Mỹ một thời gian đã quá vụng bề nhanh chóng khiến các thành viên phái bộ Anh nghi ngờ làm việc cho tình báo Liên Xô.
Tình báo viên thứ hai là Henry Christian Peack, một hoạ sĩ Hà Lan thành đạt và quảng giao, vào những thời gian khác nhau đã làm việc cho Hans Galleni và các tổ trưởng tình báo Liên Xô khác. Dưới sự chỉ đạo của họ và nhờ sự hấp dẫn của mình, Peack đã trở thành một nhân vật quen thuộc trong đông đảo quan chức và phóng viên Anh ở Geneva. Ông đã mời một số nhân viên cơ yếu đến nhà ở La Hay chơi để chiêu đãi trọng thị và cho vay tiền.
Peack đã chọn đại uý John Herbert King, người vào làm cho Cục Thông tin liên lạc của Foreign Office với tư cách nhân viên tạm thời vào năm 1934 (nhân viên tạm thời không được quyền nhận lương hưu) là ứng cử viên thích hợp nhất để tuyển mộ. Anh ta sống ly thân với vợ và đang ở với nhân tình người Mỹ. Rõ ràng King túng thiếu với mức lương eo hẹp. Peack rất kiên nhẫn và khôn khéo phát triển quan hệ với King. Một lần, ông mời King và nhân tình của anh ta đi nghỉ ở Tây Ban Nha. Tại đó, họ trú tại những khách sạn sang trọng nhất và vui chơi không tiếc tiền.
Quý bà Peack sau này đã nhận xét về chuyến đi này như một thử nghiệm thực thụ, còn về King và cô nhân tình - thì như những người buồn tẻ vô tưởng. Peack không định tuyển mộ King ở Geneva, mà đợi cho đến khi anh ta trở về Anh vào năm 1935 và đến thăm anh ta ở London. Thậm chí ở đây, Peack cũng che giấu liên hệ của mình với NKVD. Thay vào đó, ông nói với King là có một chủ nhà băng Hà Lan đặc biệt quan tâm đến thông tin mật về quan hệ quốc tế sẵn sàng trả cho cả hai một khoản tiền lớn nếu King cung cấp những thông tin đó. King đã nhận lời.
Để có lý do tồn tại ở London, Peack đã đề nghị một chuyên gia người Anh về nội thất cửa hàng Konrad Parlanti mà ông gặp trong nhóm nhân viên cơ yếu Anh thành lập một hãng trang trí nghệ thuật cho các cơ sở thương mại. Peack hứa sẽ tự kiếm tiền. Parlanti nhất trí và đôi bạn làm ăn này đã thuê một ngôi nhà trên phố Burkingham Gate ở London. Trên tầng mà Peack ngồi có một căn phòng khoá kín được Peack dùng làm nơi chụp ảnh các tài liệu do King cung cấp. Một số trong các tài liệu đó cực kỳ quan trọng nên được báo cáo trực tiếp cho Stalin. Trong số đó có bản rõ các bức điện mật mã mà sứ quán Anh ở Berlin gửi đi về kết quả các cuộc gặp với Hitler và các nhà lãnh đạo khác của nước Đức.
Ngày 2 tháng 9 năm 1939, Valter Germanovich Krivitsky, nguyên tổ trưởng tình báo NKVD ở Hà Lan, 5 tháng trước đã phản bội và được tị nạn ở Mỹ, đã đến sứ quán Anh để cảnh báo. Krivitsky đã làm việc mật thiết một thời gian dài với những người đã tuyển và chỉ đạo King. Foreign Office đã xem thường, bỏ qua lời cảnh báo đó của tên phản bội. Tuy nhiên, sau hai ngày suy nghĩ về tin tức chỉ điểm về một điệp viên Liên Xô có biệt hiệu “Nhà Vua” mà Krivitsky cung cấp, Bộ Ngoại giao Anh đã kết luận là đã xảy ra sự rò rỉ thông tin từ Foreign Office trong 4 năm gần đây và trên thực tế nó là do hành vi xấu của kẻ nào đó trong Cục Thông tin liên lạc của bộ này. Không lâu sau, King bị phát giác, bị bắt và kết án 10 năm tù.
Mãi đến năm 1956, tin tức về vụ King mới được tiết lộ cho công luận ở Mỹ trong các buổi điều trần của thượng viện Mỹ về bối cảnh Nhật tấn công vào căn cứ hải quân Mỹ trên đảo Trân Châu Cảng.