Vietnamdefence.com

 

Nan đề của Nga - Thân Trung, mất Ấn?

VietnamDefence - Những điều tưởng tượng và việc không hiểu hết những thực tế của tình thế địa-chính trị tiếp tục gây ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình xây dựng quân đội ở Nga.

Việc mở rộng hợp tác quân sự và kỹ thuật quân sự với Trung Quốc không được tất cả các chuyên gia Nga tán thành
Cuộc khủng hoảng Crimea-Ukraine đã dẫn đến việc cần phải thay đổi nhiều văn kiện học thuyết của Nga. Tiếp sau phiên bản mới của Học thuyết quân sự, đã ra đời phiên bản mới của Học thuyết Biển của Liên bang Nga. Phần quân sự của Học thuyết cho thấy, Nga sẽ đặc biệt chú trọng đến đối kháng với NATO ở Đại Tây Dương và Bắc Cực.

Kẻ thù cũ mà mới

Các sự kiện Crimea và Ukraine đã là cái cớ (chứ không hề là nguyên nhân?) để chuyển sự căng thẳng tăng lên từ lâu trong quan hệ giữa Nga và phương Tây sang hình thức đối đầu công khai. Tuy vậy, những sự kiện này lại khẳng định sự bất lực liên tục tăng và hoàn toàn của NATO, đúng hơn là của nhóm nước NATO ở châu Âu. Phản ứng cuồng loạn đối với các hành động của Nga đã cho thấy, người châu Âu không thể và không muốn đánh nhau đến mức nào.

Một lần nữa đã xác nhận được rằng, mối đe dọa quân sự từ phía NATO chẳng qua là điều tuyên truyền tưởng tượng. Bởi vậy, cứ phản ứng mãi với điều tưởng tượng này là hơi lạ. Hoặc là cần nói về sự đối kháng cụ thể với Mỹ, trong đó về mặt quân sự, châu Âu hôm nay là gánh nặng hơn là sự trợ giúp với Mỹ.

Liên quan đến Bắc Cực, thì ở khu vực này, tiềm lực quân sự Nga hiện tại mạnh hơn tất cả các nước Bắc Cực còn lại (tất cả họ đều là thành viên NATO) cộng lại. Hơn nữa, xu hướng hiện nay vẫn đi theo hướng Nga tiếp tục tăng cường sức mạnh so với các nước  này.

Thiếu sót chiến lược

Trong bối cảnh ấy, hướng Thái Bình Dương xem ra là bị xem nhẹ rõ ràng. Mặc dù là dường như các tác giả của học thuyết hiểu rõ tầm quan trọng của nó: “Tầm quan trọng của hướng khu vực Thái Bình Dương đối với Liên bang Nga là to lớn và tiếp tục tăng. Khu vực Viễn Đông của Nga có nguồn tài nguyên khổng lồ, nhất là tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đồng thời, nó lại có ít dân cư và khách tách biệt với các tỉnh công nghiệp phát triển của Liên bang Nga. Những yếu tố này đang bị  trầm trọng bởi sự phát triển vũ bão của các quốc gia khu vực châu Á-Thái Bình Dương, gây ảnh hưởng rất lớn đối với các quá trình kinh tế, nhân khẩu học, quân sự và các quá trình khác trong khu vực”.

Hoàn toàn chính xác. Chỉ cần bổ sung rằng, khu vực này mà thực chất ngay hôm nay đã là một trung tâm kinh tế và quân sự của thế giới sắp tới tất yếu sẽ trở thành cả một trung tâm chính trị của thế giới, khi các nước châu Á-Thái Bình Dương cuối cùng sẽ nhận thức được châu Âu là “một đối thủ đang hết thời” và chỉ được coi là “đồng nghĩa của văn minh” là do người ta có thói quen nghĩ thế thôi.

Trong Học thuyết Biển của Nga còn nói rằng, “biên chế số lượng và chất lượng của các hạm đội và phân hạm đội Caspie đang được duy trì ở mức tương xứng với các mối đe dọa đối với lợi ích quốc gia và an ninh củ Liên bang Nga trên hướng khu vực cụ thể, và được bảo đảm bằng các cơ sở hạ tầng đồn trú, đóng tàu và sửa chữa tàu tương ứng”. Đáng tiếc là tình trạng đó không mở sang Hạm đội Thái Bình Dương.

Hiện tại, trong biên chế của Hạm đội Thái Bình Dương chỉ có 2 tàu ngầm nguyên tử lớp Projekt 949А, 5 tàu ngầm điện-diesel Projekt 877, 1 tàu tuần dương tên lửa Projekt 1164, 1 tàu khu trục Projekt 956, 3 tàu chống ngầm cỡ lớn lớp Projekt 1155, 3 tàu đổ bộ cỡ lớn (2 tàu lớp Projekt 775, 1 tàu lớp Projekt 1171 đưa vào biên chế năm 1974). Ngoài ra, còn 8 tàu ngầm nguyên tử và 2 tàu ngầm điện-diesel, 1 tàu tuần dương tên lửa nguyên tử, 2 tàu khu trục, 1 tàu chống ngầm cỡ lớn và 1 tàu đổ bộ cỡ lớn đang được sửa chữa hay niêm cất, một phần các tàu đó chắc chắn sẽ không bao giờ trở lại đội ngũ.

Về tiềm lực chiến đấu, Hạm đội Thái Bình Dương là yếu nhất trong tất cả các liên binh đoàn chiến dịch-chiến lược của Hải quân Nga trên chiến trường của mình, nó chưa chắc lọt vào nhóm 10 hạm đội mạnh nhất châu Á-Thái Bình Dương, trong khi cả 3 hạm đội ở châu Âu ít nhất đang nằm trong nhóm 3 hạm đội hùng mạnh nhất, còn phân hạm đội Caspie là thủ lĩnh đương nhiên trên chiến trường của mình. Điều ngạc nhiên gấp đôi là Hạm đội Thái Bình Dương ngày nay thực chất vẫn là liên binh đoàn duy nhất không chỉ của Hải quân, mà của cả quân đội Nga nói chung mà quá trình trang bị lại bằng vũ khí trang bị mới đang chạy hết tốc lực đến nay vẫn chưa đụng chạm đến.

Tất cả những tàu ngầm và tàu nổi đã đưa vào biên chế và đang xây dựng vẫn đang hay sẽ vẫn ở lại phần châu Âu của nước Nga. Ngoại lệ chỉ là 3 tàu corvette lớp Projekt 20380 đang đóng ở Komsomolsk trên sông Amur cho Hạm đội Thái Bình Dương. Tuy nhiên, tốc độ đóng các tàu này chậm hơn nhiều việc đóng các corvette tương tự ở hãng đóng tàu Severnaya verf ở St. Petersburg, hơn nữa, đó là các tàu viễn dương với năng lực tấn công dư thừa, nhưng khả năng phòng thủ rất yếu. Khi nào Hạm đội Thái Bình Dương sẽ nhận được các tàu ngầm mới hay các tàu nổi “bình thường” thì không thể biết được.

Tình hình là như thế kể cả khi mà Viễn Đông được mô tả đúng trong học thuyết là “ít dân cư và khá tách biệt với các tỉnh công nghiệp phát triển của Liên bang Nga”. Nói một cách đơn giản, một khi nổ ra cuộc khủng hoảng địa-chính trị nào đó, sẽ gần như không thể tăng cường Hạm đội Thái Bình Dương bằng các tàu từ các hạm đội khác hay đóng “tại chỗ” được. Tuy nhiên, các hạm đội ở phần châu Âu của Nga đang được tăng cường trong bối cảnh NATO suy thoái về quân sự, còn Hạm đội Thái Bình Dương thì suy thoái trong bối cảnh các hạm đội châu Á đang mạnh lên nhanh chóng và Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ mà nay chính thức sẽ chiếm không dưới 60% tiềm lực của Hải quân Mỹ nói chung.

Ai là bạn, ai là thù

Rõ ràng là để bù đắp phần nào tình thế yếu kém đó, trong Học thuyết Biển của Nga có đề xuất một biện pháp mà nói nhẹ ra cũng là đáng ngờ: “Thành tố quan trọng của chính sách biển quốc gia ở hướng khu vực Thái Bình Dương là phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, cũng như mở rộng sự phối hợp có tính tích cực với các nước khác trong khu vực”.

Hơn nữa, sẽ là lạ lùng khi chờ đợi câu thần chú lâu nay về “tình hữu nghị” với Bác Kinh sẽ không xuất hiện trong văn bản chính thức. Mặc dù thật thú vị là điều đó tương ứng thế nào với một mục được trích dẫn của học thuyết: Những yếu tố này đang bị làm trầm trọng bởi sự phát triển vũ bão của các quốc gia khu vực châu Á-Thái Bình Dương, gây ảnh hưởng rất lớn đối với các quá trình kinh tế, nhân khẩu học, quân sự và các quá trình khác trong khu vực”.

Chính “các yếu tố đang làm trầm trọng ” đó. Và không ai ảnh hưởng lớn đến thế với ý nghĩa “làm trầm trọng” “các quá trình kinh tế, nhân khẩu học, quân sự và các quá trình khác trong khu vực” như Trung Quốc.

Trong khi đó trong 1,5 năm đối đầu công khai giữa Nga và phương Tây, Bắc Kinh không mảy may thể hiện rằng, họ muốn là đồng minh của chúng ta. Họ hành xử gần như giống hệt với tất cả các nước khác không thuộc phạm trù “phương Tây”: ra vẻ rằng, cuộc xung đột này không hề liên quan đến họ và họ không định giữ vị trí trung lập. Họ cũng duy trì quan hệ hoàn toàn bình thường với Ukraine, còn vấn đề Crimea thì tìm mọi cách tránh né. Hành xử tương tự còn khoảng 150 nước nữa, nhưng vì sao đó mà Nga không đưa họ vào văn kiện nào với tư cách những người bạn tốt nhất.

Không thể không nói đến việc “phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc” và “mở rộng sự phối hợp có tính tích cực với các nước khác trong khu vực” nhiều khi xung đột trực tiếp với nhau. Chẳng hạn, điều đó liên quan đến quan hệ của Nga với đồng minh lịch sử quan trọng nhất như Việt Nam. Bắc Kinh đã công khai bày tỏ bất bình về việc Moskva cung cấp vũ khí hiện đại cho Hà Nội, trước hết là vũ khí hải quân, còn công ty Gazpromneft đang chuẩn bị cùng Việt Nam khai thác dầu trên thềm lục địa Việt Nam ở Biển Đông mà Trung Quốc ngang ngược nói là hoàn toàn thuộc về họ. Đáng tiếc là Moskva không phản ứng cương quyết đối với sự can thiệp như thế vào chính sác của mình như Washington thường làm trong những trương hợp tương tự, vì thế mà Hà Nội bắt đầu ngày càng nghiêng về phía Washington.

Bởi vì, Việt Nam cần một đồng minh để kiềm chế Trung Quốc. Nhưng Moskva không sẵn sàng làm đồng minh đó, vì thế mà đang dần mất một đồng minh cực kỳ cần thiết với Nga là Việt Nam.

Đồng minh chiến lược

Một tình huống rất giống như thế đang hình thành trong quan hệ của Nga với Ấn Độ vốn chỉ được nhắc đến trong Học thuyết Biển của Liên bang Nga trong cùng bối cảnh như Trung Quốc: “Hướng quan trọng nhất của chính sách biển quốc gia ở hướng khu vực Ấn Độ Dương là phát triển quan hệ với Ấn Độ. Chính sách biển quốc gia cũng nhằm vào mở rộng sự phối hợp có tính tích cực với các nước khác trong khu vực".

Như đã nói nhiều lần trước đó, Ấn Độ khác với Trung Quốc không gây ra mối đe dọa nào đối với Nga mà trái lại là một đồng minh lý tưởng, hơn nữa là liên quan đến chính hướng Ấn Độ Dương. Nga không lối ra đại dương này, nó nằm trong địa bàn trách hiệm của Hạm đội Thái Bình Dương của Nga mà như đã nói ở trên là ngay cả địa bàn ruột của mình là Thái Bình Dương cũng không đủ sức lo. Ở Ấn Độ Dương, hạm đội này có khả năng duy trì không quá 1 tàu. Có nghĩa là Nga phải trộng cậy vào ai đó mà ngoài Ấn Độ thì ở đây chẳng có phương án nào khác. Các nước quân chủ Arab chắc chắn không phải là đồng minh còn các nước Tây Phi thì quá yếu về mọi phương diện.

Đáng tiếc là đối với Moskva thì Trung Quốc và Ấn Độ vẫn đi sát nhau như một thành tố thống nhất với Nga và là một cấu trúc địa-chính trị thay thế cho phương Tây. Hơn nữa, người ta còn tiếp tục phớt lờ thực tế là Bắc Kinh và Delhi tiếp tục coi nhau không chỉ là đối thủ địa-chính trị và kinh tế mà cả là địch thủ quân sự tiềm tàng, mà là địch thủ chính. Cùng với sự phát triển sức mạnh tổng thể của cả hai nước, sự đối kháng của họ sẽ chỉ có tăng.

Cũng không cần đánh lừa mình bằng những thứ ảo huyền BRICS và SCO (Tổ chức Hợp tác Thượng Hải). Hiện tại, BRICS lại là một cơ cấu cho những phát biểu trống rỗng vốn đã quá nhiều trên thế giới này. Ở đây chẳng thể nói đến một thứ liên minh hiện thực nào. Liên quan đến SCO, Moskva đã tự tay mình biến nó thành công cụ cho sự bành trướng của Trung Quốc sang Trung Á gây tổn hại trước hết cho lợi ích của Nga.

Việc Ấn Độ đang gia nhập SCO với tư cách một thành viên đầy đủ được Nga coi là yếu tố kiềm chế ảnh hưởng tăng nhanh của Trung Quốc. Gia nhập SCO cùng với Ấn Độ là Pakistan - kẻ thù chính của Ấn Độ và bạn tốt nhất của Trung Quốc. Điều đó rõ ràng sẽ làm tê liệt hoàn toàn tổ chức này, còn Trung Quốc sẽ tiếp tục bành trướng ra bên ngoài khuôn khổ của nó.

Dẫu sao thì khi cố đẩy Delhi vào liên minh với Bắc Kinh, Moskva chỉ đẩy Ấn Độ ra xa mình, đẩy họ một lần nữa lại về hướng Washington. Bời vì, Ấn Độ giống như Việt Nam bất luận thế nào cũng không kết bạn với Trung Quốc.

Như vậy, Học thuyết Biển của Nga xác nhận rằng, chính sách đối ngoại của Nga tiếp tục được xây dựng trên những điều tưởng tượng và khuôn mẫu hơn là tình thế thực tế. Điều đó lại càng nguy hiểm hơn. Người viết bài này mới trở về từ chuyến công tác mới đến Siberia và có thể chứng kiến, trong năm nay dã xảy ra sự gia tăng bùng nổ của người Trung Quốc trên đất Nga. Cư dân địa phương, cả người dân tộc Nga và Buryaty đều nói về điều đó với thuật ngữ “bành trướng”. Và họ không hề vui vẻ với chuyện người Trung Quốc đưa tiền sang Nga mà họ thích sống không có số tiền này, miễn là không nhìn thấy vô số người Trung Quốc đang trở nên ngang ngược ngay trước mắt. Nhưng ở Moskva, người ta cho rằng, mọi thứ vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Hỡi ôi, đó là sự sai lầm ghê gớm.

Nguồn: Mải tìm đồng minh mới, Moskva có nguy cơ mất đối tác chiến lược / Aleksandr Anatolievich Khramchikhin, Phó Giám đốc Viện Phân tích chính trị và quân sự // nvo, 7.8.2015.

Print Print E-mail Print