>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc (1)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Tàu khu trục (2)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Frigate, corvette... (3)
Tuy nhiên, các thông số chất lượng của các vũ khí này rất khác nhau trên các lớp tàu. Các tên lửa chống ngàm có điều khiển gần như không được trang bị với tư cách một loại vũ khí biên chế (Yu.V. Vedernikov có nhắc đến các tên lửa chống hạm có điều khiển thử nghiệm CY-1 lắp trên một tàu khu trục lạc hậu).
Mong muốn của Trung Quốc trang bị tên lửa chống hạm cho tất cả các tàu có thể liệt vào lớp tàu hộ tống có thể giải thích bởi ý định bảo đảm cho mọi đơn vị tàu nổi chiến đấu của mình có được không chỉ khả năng tác chiến trực tiếp với các tàu chiến chủ lực đối địch của đối phương mà cả khả năng đe dọa các lực lượng đổ bộ, các tuyến giao thông đường biển của đối phương nói chung.
Từ các số liệu về quân số tàu khu trục và frigate nói trên, Trung tâm Nghiên cứu quốc tế và chiến lược (CSIS) của Mỹ có nêu ra một số loại có thể liệt vào loại tàu hiện đại. Tiêu chí để xếp loại là khả năng thực hiện một số nhiệm vụ chiến đấu, trong đó ít nhất ở 2 loại hình tác chiến, các khả năng này phải ở trình độ cao [xli]. Trong bảng 4 có nêu số liệu về thành phần các tàu khu trục và frigate từ các bảng 1 và 2, trong đó các tàu được CSIS xếp loại là hiện đại được in màu.
Bảng 3: Tàu khu trục và frigate tên lửa hiện đại theo phân loại của CSIS của Hải quân Trung Quốc trong thành phần các tàu thuộc các lớp này trong giai đoạn 1990-2014
Lớp
|
Loại tàu
|
1990
|
2000
|
2010
|
2014
|
Tàu khu trục tên lửa
|
Sovremenny
|
-
|
1
|
4
|
4
|
Tàu khu trục tên lửa
|
051B
|
-
|
1
|
1
|
1
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052
|
-
|
2
|
2
|
2
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052B
|
-
|
-
|
2
|
2
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052C
|
-
|
-
|
2
|
4
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052D
|
-
|
-
|
-
|
1
|
Tàu khu trục tên lửa
|
051C
|
-
|
-
|
2
|
2
|
Frigate tên lửa
|
053H
|
13
|
26
|
11
|
2
|
Frigate tên lửa
|
053H1
|
9
|
1
|
9
|
6
|
Frigate tên lửa
|
053H2
|
2
|
3
|
3
|
1
|
Frigate tên lửa
|
053H1Q
|
2
|
-
|
1
|
1
|
Frigate tên lửa
|
053H1G
|
-
|
-
|
6
|
6
|
Frigate tên lửa
|
053H2G
|
-
|
4
|
4
|
4
|
Frigate tên lửa
|
053H3
|
-
|
6
|
10
|
10
|
Frigate tên lửa
|
054
|
-
|
-
|
2
|
2
|
Frigate tên lửa
|
054A
|
-
|
-
|
6
|
15
|
Frigate tên lửa
|
051
|
-
|
-
|
-
|
3
|
Frigate tên lửa
|
051DT/G
|
-
|
-
|
-
|
4
|
Tổng số tàu
|
|
|
|
|
70
|
Số tàu hiện đại theo xếp loại của CSIS
|
|
|
|
|
44
|
Tỷ lệ tàu hiện đại trên tổng số tàu
|
|
|
|
|
63%
|
Ghi chú: Tất cả các tàu khu trục được nêu trong báo cáo của CSIS trong bảng 9.10 (trang 245) là hiện đại, nhưng trong danh sách đi kèm bảng có nêu cụ thể các loại được xác định là hiện đại, nhưng không phải tất cả.
Nguồn: Anthony H. Cordesman. Chinese Strategy and Military Power in 2014. CSIS, November 2014, p. 234, 245.Không thể đồng ý hoàn toàn với sự phân loại nêu trên của CSIS vì trong đó có những thiếu sót lớn.
Có lẽ do hiểu lầm mà các lớp tàu Type 052D và Type 051C không được liệt vào danh sách các tàu hiện đại trong khi cả hai lớp này được trang bị các bệ phóng thẳng đứng, hệ thống tên lửa phòng không tầm xa với cơ số đạn tên lửa khá lớn, những yếu tố làm chúng nổi bật lên trong tất cả các tàu hộ tống của hải quân Trung Quốc.
Các frigate hạng nhẹ Type 056 cũng không được đưa vào danh sách. Một mặt, lớp tàu này có danh mục vũ khí hạn chế, nhưng cần lưu ý đến lớp tàu, lượng giãn nước và các nhiệm vụ được giao của nó. Ngoài ra các tàu đang trong quá trình đóng hàng loạt xem ra cũng được CSIS tự động liệt vào hạng tàu hiện đại.
Theo chúng tôi, việc liệt vào hạng tàu hiện đại các tàu khu trục lớp Type 051В và Type 052, các frigate Type 053H2G và Type 053H3 là không phù hợp. Danh mục các hệ thống phòng không tiêu chuẩn của các tàu này là các hệ thống tên lửa HQ-7 (Naval Crotal) và 4 pháo phòng không tự động (2 nòng 37mm hay 6 nòng 30 mm). Hệ thống tên lửa phòng không HQ-7 có tầm bắn không lớn, không thể buộc máy bay địch phải hoạt động ở ngoài khu vực sử dụng thực tế các tên lửa không đối diện tầm ngắn, còn khi đánh chặn tên lửa chống hạm một khi thất bại sẽ không còn thời gian để sử dụng hệ thống pháo phòng không tầm gần, có cơ số đạn sẵn sàng chiến đấu ít (8 tên lửa), tầm bắn và phần chiến đấu của tên lửa không cho phép khi cần có thể tác chiến chống mục tiêu mặt nước với hiệu quả như hệ thống tên lửa phòng không tầm trung và tầm xa. Các hệ thống pháo tầm gần lắp trên các tàu không bảo đảm phòng thủ hiệu quả trước tên lửa chống hạm.
Ụ pháo Type 630 là biến thể lạc hậu của các hệ thống pháo Liên Xô AK-630, có khả năng hạn chế trong tiêu diệt tên lửa chống hạm bay tiếp cận. R. Angelsky và V. Korovin cho rằng, “mặc dù AK-630 có tốc độ bắn cao (đến 6.000 phát/phút) và sử dụng các trạm dẫn pháo trang bị radar để điều khiển hỏa lực, xác suất sống sót của một con tàu được trang bị chúng vẫn thấp”, xác suất tiêu diệt mục tiêu bằng đạn pháo lắp ngòi nổ tiếp xúc cũng được đánh giá là thấp [xlii]. Hệ thống pháo-tên lửa phòng không tầm gần Kortik được phát triển từ năm 1980 để thay thế AK-630 đã được Liên Xô đưa vào trang bị vào năm 1987 và biến thể xuất khẩu của nó là Kashtan đã được lắp trên 2 tàu khu trục lớp Projekt 956EM Sovremenny của hải quân Trung Quốc.
Với trình độ phát triển của các phương tiện tiến công đường không hiện nay, việc sử dụng phổ biến ồ ạt có điều khiển, các tính năng đó không thể nào được coi là hiện đại. Hơn nữa, đó lại là các tàu cỡ lớn có lượng giãn nước cho phép bố trí các vũ khí hiệu quả hơn.
Như vậy, với những lý do nêu ở trên, số lượng tàu hộ tống hiện đại trong hải quân Trung Quốc cần giảm xuống như nêu trong bảng 4.
Bảng 4: Tàu khu trục và frigate tên lửa hiện đại theo phân loại của các tác giả O. Valetsky và O. Ponomarenko của Hải quân Trung Quốc trong thành phần các tàu thuộc các lớp này trong giai đoạn 1990-2014.
Lớp
|
Loại tàu
|
1990
|
2000
|
2010
|
2014
|
Tàu khu trục tên lửa
|
Sovremenny
|
-
|
1
|
4
|
4
|
Tàu khu trục tên lửa
|
051B
|
-
|
1
|
1
|
1
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052
|
-
|
2
|
2
|
2
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052B
|
-
|
-
|
2
|
2
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052C
|
-
|
-
|
2
|
4
|
Tàu khu trục tên lửa
|
052D
|
-
|
-
|
-
|
1
|
Tàu khu trục tên lửa
|
051C
|
-
|
-
|
2
|
2
|
Frigate tên lửa
|
053H
|
13
|
26
|
11
|
2
|
Frigate tên lửa
|
053H1
|
9
|
1
|
9
|
6
|
Frigate tên lửa
|
053H2
|
2
|
3
|
3
|
1
|
Frigate tên lửa
|
053H1Q
|
2
|
-
|
1
|
1
|
Frigate tên lửa
|
053H1G
|
-
|
-
|
6
|
6
|
Frigate tên lửa
|
053H2G
|
-
|
4
|
4
|
4
|
Frigate tên lửa
|
053H3
|
-
|
6
|
10
|
10
|
Frigate tên lửa
|
054
|
-
|
-
|
2
|
2
|
Frigate tên lửa
|
054A
|
-
|
-
|
6
|
15
|
Frigate tên lửa
|
051
|
-
|
-
|
-
|
3
|
Frigate tên lửa
|
051DT/G
|
-
|
-
|
-
|
4
|
Frigate tên lửa (hạng nhẹ)
|
056
|
-
|
-
|
-
|
8
|
Tổng số tàu
|
|
|
|
|
78
|
Số tàu được các tác giả xếp loại là hiện đại
|
|
|
|
|
36
|
Tỷ lệ tàu hiện đại trên tổng số tàu
|
|
|
|
|
46%
|
Ghi chú: Các frigate lớp Type 056 được xếp loại là hiện đại chủ yếu là vì đây là loạt tàu đang được đóng; nhưng thành phần vũ khí của chúng khiến việc xếp chúng vào loại hiện đại là đáng tranh cãi.
Xét về các tên lửa chống hạm mà tất cả các tàu khu trục và frigate đều được trang bị, hướng hiện đại hóa chủ đạo là cải tiến các tính năng của chính các tên lửa bố trí trong các thùng phóng chuyên dụng dành cho chúng (có lẽ ngoại trừ tàu khu trục lớp Type 052D), còn sự phát triển về phòng không có những thay đổi lớn.
Chính vì cần phải đối phó với khả năng tấn công ồ ạt của tên lửa chống hạm, tên lửa hành trình và tên lửa không đối diện mà những thay đổi này đặc biệt dễ thấy. Bảng 5 thể hiện những thay đổi đó trong biên chế vũ khí phòng không ở một số loại tàu khu trục.
Bảng 5: Một số tính năng của lớp tàu khu trục Type 052 (/B/C/D)
(R max - tầm bắn tối đa của hệ thống; biên soạn theo số liệu của Jane’s Fighting Ships 2004-2005 đối với Type 052, Type 052B, www.naval-technology.com đối với Type 052C, Type 052D, vì thế nên có thể có sự khác biệt về các hệ thống; đối với Type 052С, số lượng các tàu này trong hải quân Trung Quốc có nêu là 6 chiếc khi tính cả tàu khu trục Xian được nhận vào biên chế vào ngày 9/2/2015).
Lớp tàu
|
Thông số
|
Bệ phóng thẳng đứng
|
Số lượng
|
Hệ thống
vũ khí
|
R max, km
|
Vũ khí
tương đương
|
052
|
Năm
|
1994-1996
|
Số lượng trong biên chế
|
2
|
Lượng giãn nước, tấn
|
4.600
|
Các đặc điểm trang thiết bị vô tuyến điện tử
(anten mạng pha, radar ngoài đường chân trời)
|
-
|
|
|
|
|
Hệ thống TLPK tầm ngắn
|
|
1 х 8
|
HQ-7
|
13
|
-
|
Hệ thống TLPK tầm trung
|
|
-
|
-
|
-
|
-
|
Hệ thống TLPK tầm xa
|
|
-
|
-
|
-
|
-
|
Hệ thống tên lửa chống hạm
|
|
16
|
YJ-83
|
160
|
|
Ụ pháo tầm gần
|
|
4×2×37
mm
|
Type
730
|
8,5
|
|
052B
|
Năm
|
2004
|
Số lượng trong biên chế
|
2
|
Lượng giãn nước, tấn
|
6.500
|
Các đặc điểm trang thiết bị vô tuyến điện tử
(anten mạng pha, radar ngoài đường chân trời)
|
-
|
|
|
|
|
Hệ thống TLPK tầm ngắn
|
|
-
|
-
|
-
|
-
|
Hệ thống TLPK tầm trung
|
|
2×1
|
Shtil-1
|
35
|
|
Hệ thống TLPK tầm xa
|
|
-
|
-
|
-
|
-
|
Hệ thống tên lửa chống hạm
|
|
16
|
YJ-83
|
160
|
|
Ụ pháo tầm gần
|
|
2×7×30
mm
|
Type
730
|
3
|
|
052C
|
Năm
|
2004-2015
|
Số lượng trong biên chế
|
6
|
Lượng giãn nước, tấn
|
7.000
|
Các đặc điểm trang thiết bị vô tuyến điện tử
(anten mạng pha, radar ngoài đường chân trời)
|
Anten
mạng pha, 4 anten cố định
|
Hệ thống TLPK tầm ngắn
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
Hệ thống TLPK tầm trung
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
Hệ thống TLPK tầm xa
|
Bệ
phóng
thẳng đứng
|
48
|
HHQ-9
|
150
|
S-300FM
Rif
|
Hệ thống tên lửa chống hạm
|
|
8
|
YJ-62
|
280
|
|
Ụ pháo tầm gần
|
|
2×7×30
mm
|
Type
730
|
3
|
|
052D
|
Năm
|
2014
- …
|
Số lượng trong biên chế
|
1
(dự kiến đóng loạt 12 chiếc)
|
Lượng giãn nước, tấn
|
7.500
|
Các đặc điểm trang thiết bị vô tuyến điện tử
(anten mạng pha, radar ngoài đường chân trời)
|
Anten
mạng pha, 4 anten cố định
|
Hệ thống TLPK tầm ngắn
|
|
1×24
|
AJK-10
(HQ-10)
|
9
|
|
Hệ thống TLPK tầm trung
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
Hệ thống TLPK tầm xa
|
Bệ
phóng thẳng đứng vạn năng
|
64
|
HHQ-9
|
150
|
S-300FM
Rif
|
Hệ thống tên lửa chống hạm
|
|
?
(64)
|
YJ-18A
|
180
|
|
Ụ pháo tầm gần
|
|
1×7×30
mm
|
H/PJ-12
|
3
|
|
|
Từ số liệu nêu trên, trong sự phát triển tiến hóa của các tàu khu trục Trung Quốc, ta thấy có việc tăng lượng giãn nước và lắp đặt các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa với cơ số đạn lớn, có khả năng thực hiện nhiệm vụ phòng thủ khu vực hay binh đoàn tàu chứ không chỉ là các đơn vị tàu chiến đấu đơn lẻ. Việc chuyển sang sơ đồ kết cấu và trang bị gần với tàu khu trục DDG51 Arleigh Burke của Mỹ diễn ra khá muộn, được đặc trưng bởi sự khác nhau về thời gian đưa vào biên chế các tàu đầu tiên của các lớp tàu Type 052С và Type 052D (tương ứng là năm 2003-2004 và năm 2014).
Những cải tiến chính của Type 052D so với Type 052C, theo đánh giá của globalsecurity.com [xliii], bao gồm:
1. Lắp ụ pháo chính mạnh hơn cỡ 130 mm thay cho ụ pháo chính 100 mm;
2. Sử dụng hệ thống truyền dữ liệu tiên tiến hơn của Trung Quốc tương đương Link 16 thay vì Link 11/TADIL-A;
3. Radar lớn và hiện đại hơn với anten mạng pha: Flat AESA thay cho Convex AESA;
4. Bệ phóng thẳng đứng vạn năng lớn hơn chứa 64 (ngăn phòng) thay cho bệ phóng thẳng đứng chứa 48 tên lửa của hệ thống tên lửa phòng không.
Tuy nhiên, so sánh về phần bệ phóng thẳng đứng hơi có phần lạc quan và cần lưu ý rằng, khi lắp tên lửa chống hạm vào bệ phóng thẳng đứng vạn năng trên Type 052D thì xét theo cấu trúc của tàu, cơ số đạn tên lửa phòng không sẽ giảm đi. Sự khác biệt của bệ phóng thẳng đứng của các tàu về sức chứa là 16 ngăn phóng sẽ phần nào bị mất đi, ưu điểm chính còn lại là tính vạn năng khi xét đến khả năng bố trí cả tên lửa chống ngầm và tên lửa hành trình.
Bên cạnh đó, hai lớp tàu Type 052С và Type 052D là dấu mốc quan trọng trong ngành đóng tàu quân sự Trung Quốc. Đáng chú ý là với việc đưa vào biên chế tàu thứ 6 lớp Type 052С là tàu Xian vào ngày 9/2/2015 và nếu tính cả tàu khu trục đầu tiên lớp Type 052D là tàu Côn Minh đưa vào biên chế từ ngày 21/3/2014 thì hải quân Trung Quốc về số lượng tàu chiến trang bị các hệ thống tương tự Aegis của Mỹ đã vượt Hải quân Nhật Bản với 4 tàu khu trục lớp Kongo và 2 tàu khu trục lớp Atago (tương đương các biến thể của tàu khu trục Mỹ DDG51 Arleigh Burke) [xliv]. Ngoài ra, tháng 10/2014, có tin 6 tàu lớp Type 052D đang được đóng ở các giai đoạn khác nhau, 4 chiếc nữa sẽ được đặt đóng hay dự định đóng, còn tàu thứ hai của loạt tàu là tàu Changsha đang chạy thử [xlv].
So sánh Type 052D với Arleigh Burke, biến thể Flight I (chính là DDG51 Arleigh Burke) vốn được đưa vào biên chế Hải quân Mỹ vào tháng 7/1991 và biến thể hiện đại hơn là biến thể Flight IIА nhận vào biên chế vào tháng 8/2000 (DDG71 Oscar Austin) [xlvi] sẽ cho kết quả không lợi cho tàu khu trục Trung Quốc. Về mặt trang bị vũ khí chính, cần lưu ý đến sự khác biệt lớn về số lượng ngăn phóng ở các bệ phóng thẳng đứng vạn năng - 96 ở tàu Mỹ (Flight IIА) và 64 ở tàu Trung Quốc. Cũng không nên coi nhẹ sự hiện diện của 2 trực thăng hạng nặng hơn ở tàu DDG51 so với 1 trực thăng ở Type 052D. Trong số các ưu thế của tàu Mỹ, có thể chỉ ra khả năng đi biển tốt hơn, cấu trúc thân được thiết kế kỹ lưỡng hơn về mặt bảo đảm độ bộc lộ radar, trạm thủy âm mạnh hơn, các hệ thống chỉ huy/điều khiển và vũ khí trên tàu có các tính năng đã được khẳng định [xlvii].
|
Khi đánh giá tiềm lực chiến đấu của các tàu khu trục và frigate của hải quân Trung Quốc có trang bị hệ thống tên lửa phòng không tầm trung và tầm xa, cần chú ý đến khả năng của các hệ thống này bắn mục tiêu mặt nước bằng tên lửa phòng không. Liên Xô đã bổ sung tính vạn năng đó cho các tên lửa phòng không khi hiện đại hóa các hệ thống phòng không chủ yếu của Hải quân Liên Xô vào cuối thập kỷ 1960 là М-1 Volna và М-11 Shtorm vốn đều áp dụng hệ dẫn lệnh vô tuyến. Cũng có khả năng này là các hệ thống М-22 Uragan mà các biến thể của nó đã được trang bị cho một số lớp tàu của hải quân Trung Quốc như Projekt 956E/EM, Type 052В, Type 054А) [xlviii]. Nếu tính cả các frigate lớp Type 054А, hệ thống này ở biến thể HQ-16 là đông đảo nhất trong hải quân Trung Quốc, ngoại trừ các hệ thống phòng không tầm gần.
Tàu khu trục Sovremenny được Liên Xô khởi đóng vào năm 1976, hạ thủy vào năm 1978, nhưng chỉ được đưa vào biên chế hải quân với việc hoàn tất thử nghiệm hệ thống tên lửa phòng không vào năm 1982. Hải quân Trung Quốc nhận được tàu tương tự đầu tiên vào năm 2000.
Ban đầu, hệ thống này sử dụng tên lửa 9M38 với chiều dài 5,5 m, đường kính 0,4 m, sải cánh lái 0,86 m, trọng lượng phóng 660 kg, trọng lượng phần chiến đấu 70 kg. Hệ thống cho phép diệt mục tiêu bay với tốc độ đến 840 m/s, ở cự ly đến 25 km (diệt tên lửa hành trình ở cự ly đến 12 km) và độ cao đến 15 km, xác suất diệt bằng 1 quả tên lửa phòng không có điều khiển đối với máy bay là 0,81-0,96, đối với tên lửa hành trình - 0,43-0,80.
Việc sử dụng tên lửa 9M317 của hệ thống Buk-M1-2 cho phép tăng tầm bắn lên đến 32 km, độ cao đánh chặn lên đến 25 km (được giới thiệu vào năm 2003). Năm 2009, đã giới thiệu hệ thống Shtil-1 vứi tên lửa 9M317ME dành cho bệ phóng thẳng đứng. Tầm bắn tăng lên đến 50 km, kích thước tên lửa không thay đổi, trọng lượng là 581 kg, trọng lượng phần chiến đấu 62 kg. Nhịp bắn là 3 s (đối với М-22 Uragan, nhịp bắn là 12 s, đối với tàu với 2 bệ phóng là 6 s), thời gian phản ứng 5-10 s [xlix].
Ta biết rằng, các phần chiến đấu của các tên lửa phòng không được tối ưu hóa để bắn mục tiêu bay, nhưng rõ ràng là khi cần sử dụng tên lửa phòng không có điều khiển chống mục tiêu mặt nước thì các tên lửa của các hệ thống Shtil (Shtil-1)/HQ-16 với phần chiến đấu nặng 62-70 kg (phần chiến đấu của các tên lửa của hệ thống S-300FM Rif/HQ-9 cũng có trọng lượng tương tự) có một giá trị chiến đấu khác hẳn các tên lửa của hệ thống HQ-7 với phần chiến đấu 14 kg và tầm bắn 13 km [l].
Các phương tiện phòng không hiện đại của hải quân Trung Quốc, được lắp trước hết trên các tàu đang được đóng, cho phép tạo ra khả năng phòng thủ nhiều tầng cho các binh đoàn hay biên đội tàu. Khi đó, giới hạn xa tiêu diệt mục tiêu bay được đẩy lên khá xa, điều đó được nhấn mạnh đặc biệt trong báo cáo mới phát hành (10/4/2015) của Cục Tình báo Hải quân Mỹ (Office of Naval Intelligence - ONI) về tình trạng hải quân Trung Quốc.
Trong báo cáo có dẫn biểu đồ tầm bắn của các hệ thống tên lửa phòng không của các tàu hải quân, nhưng điều kỳ lạ là trong đó chỉ nhắc đến các hệ thống HQ-7 và HQ-9 [li] mặc dù trong văn bản báo cáo có lưu ý đến cả HQ-16. Căn cứ vào tên gọi của sơ đồ là “Figure 2-3. Naval Surface-to-Air Missile Ranges”, thì thông tin được giới thiệu có thể đánh giá là không đầy đủ. Chúng tôi xin nêu ra phương án phù hợp hơn với tình trạng các phương tiện phòng không trang bị cho các tàu chiến nổi của hải quân Trung Quốc.
Bảng 6: Tầm bắn mục tiêu bay tối đa của các hệ thống tên lửa phòng không của hải quân Trung Quốc (trừ các hệ thống tên lửa/pháo phòng không)
HQ-9ER
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
150
|
km
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
HQ-9
|
|
|
|
|
|
|
|
|
93
|
km
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
HQ-16 (Shtil-1)
|
|
|
|
|
50
|
km
|
|
|
|
TLPK 9M317ME
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Shtil
|
|
|
32
|
km
|
|
|
|
|
-
|
TLPK 9M317
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Shtil
|
|
25
|
km
|
|
|
|
|
|
|
TLPK 9M38
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
HQ-7
|
13
|
km
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
HQ-10
|
9
|
km
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ghi chú: Màu xanh là theo số liệu của ONI, Hải quân Mỹ, 2015; Màu đỏ là
phần bổ sung của các tác giả P. Valetsky và O. Ponomarneko.Do phần lớn lực lượng tàu hộ vệ đang đóng ở Trung Quốc hiện nay định hướng vào các cụm tàu sân bay tương lai, nên cần lưu ý đến tính hợp lý nhất định của sự hiện diện của mấy hệ thống phòng không với tầm bắn khác nhau trên các tàu của cụm tàu sân bay. Một trong các phương án nêu ra thành phần có thể của các tàu bảo vệ tàu sân bay gồm 4 tàu khu trục lớp Type 052D, 4 tàu khu trục thuộc các lớp khác và 2 frigate lớp Type 054А.
Cần lưu ý rằng, xét về chất lượng và số lượng tàu trong serie, không loại trừ khả năng số lượng frigate loại này trong thành phần dự kiến của cụm tàu sân bay Trung Quốc sẽ còn nhiều hơn. Như vậy, một cụm tàu sân bay như vậy có thể được bảo vệ bởi ít nhất 448 tên lửa phòng không có điều khiển, một phần trong số đó sẽ ngăn cản máy bay đối phương tiếp cận đến cự ly sử dụng ồ ạt các loại vũ khí không đối diện.
Các phương án ví dụ phân bổ tên lửa phòng không có điều khiển được nêu trong bảng 7.
Bảng 7: Các phương án cơ số đạn tên lửa phòng không có điều khiển của các tàu bảo vệ cụm tàu sân bay của hải quân Trung Quốc
Thành phần tàu mặt nước bảo vệ
cụm tàu sân bay xung kích
|
Tàu
|
TLPK
có điều khiển
|
TLPK có điều khiển tầm xa
|
TLPK có điều khiển tầm trung
|
Phương án 1 (China Defense Mashup, 9/5/2009)
|
|
|
|
Type 052D
|
4
|
48
|
192
|
|
Các tàu khu trục tên lửa khác:
|
4
|
|
|
|
- với hệ thống TLPK HQ-9
|
2
|
48
|
96
|
|
- với hệ thống TLPK HQ-16
|
2
|
48
|
|
96
|
Type 054A
|
2
|
32
|
|
64
|
Tổng cơ số đạn TLPK của các tàu bảo vệ
|
288
|
160
|
|
Phương án 2
|
|
|
|
|
Type 052D
|
4
|
48
|
192
|
|
Các tàu khu trục tên lửa khác:
|
2
|
|
|
|
- với hệ thống TLPK HQ-9
|
2
|
48
|
96
|
|
- với hệ thống TLPK HQ-16
|
-
|
|
|
|
Type 054A
|
6
|
32
|
|
192
|
Tổng cơ số đạn TLPK của các tàu bảo vệ
|
288
|
192
|
|
Phương án 1 biên chế các tàu được nêu theo tài liệu: Luyang III / Type 052D Multirole Destroyer (http://www.globalsecurity.org/military/world/china/luyang-iii.htm).
Đối với Type 052D, để làm việc này, người ta dự tính chỉ sử dụng một phần bệ phóng thẳng đứng vạn năng cho các tên lửa phòng không có điều khiển trong tổng số 64 ô phóng.
Trong hải quân Trung Quốc, tên lửa chống hạm có vị trí rất quan trọng. Trong đa số các phương án xung đột quân sự lớn, người Trung Quốc sẽ buộc phải hành động trên chiến trường biển vốn tràn ngập những con tàu nổi quân sự và dân sự. Để bảo đảm cho việc sử dụng ồ ạt tên lửa chống hạm, yếu tố cần thiết để đột phá phòng không của các binh đoàn biên đội tàu đối phương, cũng như giảm xác suất thành công của đối phương trong việc tiêu diệt các phương tiện mang tên lửa chống hạm, người Trung Quốc tìm cách triển khai loại vũ khí lên số lượng hương tiện mang nhiều nhất có thể.
Sự chú ý tới loại vũ khí này có tính truyền thống ở nghĩa nào đó. Trung Quốc đã bắt đầu đưa vào biên chế tên lửa chống hạm vào cuối thập niên 1950 nhờ nhận được vũ khí và sự hỗ trợ công nghệ của Liên Xô. Năm 1960, dây chuyền lắp ráp đầu tiên đã được tổ chức để bắt đầu sản xuất các tên lửa chống hạm cận âm P-15 Termit của Liên Xô có tầm bắn 80 km và phần chiến đấu 340 kg. Tuy nhiên, trong tháng 9/1960, đội ngũ chuyên gia kỹ thuật của Liên Xô đã ngừng hoạt động, song vào tháng 11/1960, Trung Quốc đã thực hiện lần phóng đầu tiên thành công tên lửa này. Năm 1964, biến thể P-15 sản xuất theo giấy phép đã vượt qua thử nghiệm nhà máy và lần phóng đầu tiên tên lửa này đã được thực hiện thành công vào năm 1965. Vào cuối năm 1967, tên lửa với tên gọi Shangyou-1 đã được phê chuẩn sản xuất và nhận vào trang bị vào cuối thập niên 1960. Sau đó, hơn một thập kỷ, Trung Quốc gặp khó khăn trong việc nghiên cứu chế tạo các tên lửa chống hạm của riêng họ phái sinh từ các biến thể tên lửa Liên Xô. Mặc dù có sự tiến bộ trong lĩnh vực này trong những năm gần đây, người ta vẫn thấy tồn tại sự phụ thuộc vào các công nghệ nước ngoài, nhất là vào sự hỗ trợ kỹ thuật của Nga và Ukraine [lii].
Cũng như ở nhiều lĩnh vực khác, Trung Quốc tiếp tục mua tên lửa chống hạm đồng thời triển khai sản xuất các tên lửa ngày càng hoàn thiện do họ tự phát triển. Ở đây, ta thấy sự thiếu tin tưởng vào vũ khí nội địa, ý muốn mua các hệ thống có các tính năng độc đáo (như tên lửa chống hạm Moskit đã nêu khi mô tả các tàu khu trục lớp Projekt 956E/EM), cũng như có được khả năng tiếp cận các mẫu tên lửa hiện đại do nước ngoài sản xuất.
Hiện nay, các tên lửa chống hạm có số lượng đông đảo nhất của hạm đội tàu nổi Trung Quốc là YJ-82 và YJ-83, trong khi tên lửa tiên tiến nhất là YJ-62.
YJ-82 là tên lửa chống hạm nhiên liệu rắn với tầm bắn đến 42 km, tốc độ 0,9M và phần chiến đấu 165 kg. Tên lửa bay ở độ cao 5-7 m tại khu vực mục tiêu.
YJ-83 là biến thể cải tiến của YJ-82, được đưa vào trang bị cho hải quân Trung Quốc vào năm 1998-1999. Tên lửa sử dụng động cơ turbine phản lực nội địa CTJ-2 thay cho động cơ Pháp TRI 60-2 lắp trên biến thể xuất khẩu của tên lửa này (С-802). Tầm bắn của tên lửa tăng lên đến 180 km (thông tin về tầm bắn có sự khác nhau ở các nguồn tin khác nhau) ở tốc độ bay 0,9M. Phần chiến đấu cũng nặng hơn một chút, lên đến 190 kg. Đây là tên lửa chủ lực của các tàu chiến mặt nước của hải quân Trung Quốc.
Tháng 9/2005, tên lửa chống hạm C-602 đã lần đầu tiên được giới thiệu. Đây là tên lửa có kích thước lớn hơn loại trước đó, nhưng với tầm bắn lên tới 280 km, có khả năng dẫn theo GPS và phần chiến đấu uy lực hơn nặng 300 kg. Ở biến thể YJ-62 dành cho hải quân Trung Quốc, tầm bắn của tên lửa theo đa số nguồn tin mà các chuyên gia Dennis M. Gormley, Andrew S. Erickson, Jingdong Yuan lưu ý, được nêu là 280 km, phù hợp với biến thể xuất khẩu vì phải tuân thủ quy định hạn chế tầm bắn tối đa ở mức 300 km của các hiệp định quốc tế về phổ biến công nghệ tên lửa mặc dù Trung Quốc không phải là thành viên đầy đủ của chế độ kiểm soát công nghệ tên lửa (MTCR, 34 nước). Tầm bắn thực tế của tên lửa là khoảng 400 km. Tầm bắn đó đòi hỏi phải sử dụng hệ dẫn vệ tinh và người ta cũng nói về khả năng của YJ-62 sử dụng GPS hoặc hệ thống vệ tinh định vị Bắc Đẩu của Trung Quốc. Tên lửa có tốc độ bay hành trình 0,6-0,8M, còn ở khu vực mục tiêu, tên lửa bay ở độ cаo 7-10 m. YJ-62 được trang bị cho các tàu khu trục lớp Type 052С.
Tên lửa chống hạm tối tân nhất của Trung Quốc YJ-18 dự đoán là bản sao chép của tên lửa 3M54E Club của Nga, với tầm bắn công bố 180 km ở tốc độ 0,8M và tốc độ 2,5-3M ở đoạn bay 40 km đến mục tiêu. Tên lửa này có lẽ có thể lắp trong các bệ phóng thẳng đứng vạn năng của các tàu khu trục Type 052D.
Ngoài tên lửa chống hạm, dự đoán, trên Type 052D có thể lắp cả các tên lửa hành trình dưới âm hạm đối bờ DH-10 với tầm bắn hơn 1.500 km và phần chiến đấu 500 kg [liii].
Cũng có những câu hỏi nhất định mặc dù Trung Quốc có những nỗ lực trong lĩnh vực đóng tàu chiến hiện đại - đó là quan điểm cơ bản đối với cấu hình vũ khí trang bị của các tàu khu trục và tàu frigate trong cả giai đoạn được xem xét.
Một mặt, điều hoàn toàn tự nhiên là Trung Quốc đã có thể bảo đảm cung cấp cho hạm đội của mình các hệ thống vũ khí điều khiển hiện đại muộn hơn nhiều so với Liên Xô, sau đó là Nga, và Mỹ, và khả năng của họ cũng hạn chế. Nhưng cần lưu ý đến vấn đề sau đây.
Quy mô sử dụng vũ khí có điều khiển trong tương lai có thể hình dung không chỉ trên cơ sở chiến dịch chống Iraq năm 1991 - đó chắc chắn là hệ quả của một cú nhảy vọt công nghệ trước đó, - mà còn dựa vào diễn biến giai đoạn cuối chiến tranh ở Việt Nam và qua các cuộc chiến tranh Arab-Israel. Triển vọng sử dụng ồ ạt tên lửa có điều khiển chống các hạm tàu đã đòi hỏi phải có vũ khí phòng vệ tương ứng.
Chẳng hạn, Liên Xô đã chế tạo hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Kinzhal (tầm bắn đến 12 km) với các bệ phóng thẳng đứng. Hệ thống đã được nghiên cứu hoàn thiện trong một thời gian dài, hệ thống không được lắp trên các tàu đầu tiên của loạt tàu chống ngầm cỡ lớn lớp Ptojekt 1155, nhưng các tàu của loạt này kể từ tàu thứ tư là Đô đốc Zakharov (đưa vào biên chế hạm đội từ năm 1983) đã được trang bị các bệ phóng thẳng đứng ở đuôi tàu (trang bị đầy đủ bao gồm cả một hệ thống ở mũi tàu).
Một số tàu đã thực hiện các chuyến thăm viếng hữu nghị các cảng của Ấn Độ, CHDCND Triều Tiên, Nam Yemen, Malaysia vào năm 1987 [liv].
Tuy nhiên, trước đó, vào năm 1986, tàu tuần dương tên lửa Slava lớp Projekt 1164 trang bị hệ thống tên lửa phòng không tầm xa Fort với 8 bệ phóng thẳng đứng (cơ số 64 đạn tên lửa) được đưa vào biên chế hạm đội vào cuối năm 1982 đã đến thăm Syria và Hy Lạp. Năm 1985, tàu đã theo dõi cụm tàu sân bay Mỹ với các tàu sân bay USS America và USS Forrestal trên Địa Trung Hải. Fort là hệ thống tên lửa phòng không đa kênh đầu tiên của Hải quân Liên Xô, có khả năng đồng thời bám 12 mục tiêu và bắn đến 6 mục tiêu bay [lv].
Như vậy, ngay vào nửa đầu thập niên 1980, đã thấy rõ xu hướng phát triển kết cấu vũ khí tên lửa của các tàu hộ tống vốn đạt được sự hợp ý tối đa ở tàu khu trục tên lửa DDG51 Arleigh Burke, được đưa vào biên chế vào năm 1991. Các bệ phóng thẳng đứng vạn năng của tàu này đã cho phép sử dụng các tên lửa thuộc các loại khác nhau, các bệ phóng nhỏ gọn, trong tương lai (đã bắt đầu thực hiện) có thể bố trí trong một ngăn phóng một cụm (4) các tên lửa có kích thước nhỏ hơn, nhờ đó mà tăng được cơ số đạn, đa dạng hóa khả năng chiến đấu. Căn cứ vào thực tế là các hãng đóng tàu Trung Quốc cuối cùng đã chọn đi theo chính sơ đồ đó giống như cả thế giới, có thể phỏng đoán rằng, Trung Quốc đã bỏ phí mất nhiều thời gian và tốn phí không ít nguồn lực cho việc thiết kế các biến thể quá độ và đóng các tàu vốn đã lạc hậu ngay từ đầu. Có một số cơ sở để cho rằng, thậm chí các tàu chiến hộ tống mà Trung Quốc hiện đang đóng cũng vẫn chưa tính đến đầy đủ kinh nghiệm của các mẫu tàu chiến tốt nhất thế giới về cấu trúc và thành phần vũ khí.
http://csef.ru/ru/oborona-i-bezopasnost/505/6249
Kết luận
Tình hình phát triển tàu mặt nước hộ tống của hải quân Trung Quốc và các loại tàu/xuồng riêng lẻ mang tên lửa có điều khiển trong 20 năm gần đây cho phép đưa ra các kết luận sau đây.
1. Hạm đội tàu hộ tống rất được quan tâm phát triển, ở ý nghĩa nhất định, không ít hơn các hệ thống vũ khí tiến công của quân đội Trung Quốc.
2. Có sự gia tăng vững chắc về số lượng của hạm đội tàu hộ tống, hơn nữa là bằng cách đóng các tàu mới, chứ không phải là hiện đại hóa các tàu hiện có.
3. Các loạt tàu gần đây được đóng loạt lớn, điều vốn không phải là điển hình cho những năm 2000, và được tiêu chuẩn hóa ở mức độ lớn hơn về thành phần vũ khí, điều cho thấy Trung Quốc đã xác định được cấu hình tối ưu (có xét đến tính năng) cho các lớp tàu chiến nhất định.
4. Bước nhảy vọt về chất lượng trang bị các hệ thống vũ khí mới cho hạm tàu được thực hiện thành mấy giai đoạn, ý tưởng thiết kế đã tiến sát các tiêu chuẩn thế giới, nhưng có sự chậm trễ áp dụng các giải pháp cơ bản du nhập từ các nước dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực đóng tàu quân sự.
5. Tất cả các tàu khu trục, frigate, corvette đều được trang bị tên lửa chống hạm bất kể cơ cấu và tính năng chiến đấu của các vũ khí trang bị còn lại trên tàu.
6. Trung Quốc là quốc gia duy nhất có hạm đội tàu tên lửa nhỏ (xuồng) đông đảo, được đổi mới khá gần đây.
7. Trung Quốc còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ nước ngoài, trước hết là trong các lĩnh vực then chốt như các hệ thống vũ khí và chế tạo động cơ. Khả năng chiến đấu thực tế của các hệ thống, các thông số chất lượng của chúng vẫn chưa rõ; Trừ một số ngoại lệ hiếm hoi, chưa có sự xác nhận cho hiệu quả của chúng trong tác chiến.
8. Số lượng vũ khí có điều khiển và tính năng của chúng, hơn nữa là trên các tàu hộ tống và tàu tên lửa nhỏ có khả năng tạo ra và đang tạo ra, căn cứ vào sự lo ngại và phản ứng của Mỹ, mối đe dọa chiến lược đối với bất kỳ đối phương tiềm tàng nào. Giống như nhiều đánh giá của các bên khác nhau về sự phát triển của Trung Quốc, đánh giá được nêu ra phần nhiều dựa trên sự phỏng đoán sự tiến bộ về cải thiện chất lượng của cả các dự án nghiên cứu phát triển, lẫn các công nghệ sản xuất vũ khí. Tuy nhiên, từ vị thế của giữa thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, có thể thấy rõ rằng, trong lĩnh vực kỹ thuật, Trung Quốc chưa đạt được trình độ công nghệ có thể sánh với các đấu thủ hàng đầu thế giới.
Mặc dù đã rút ngắn được khoảng cách công nghệ, nhiều ví dụ trong các lĩnh vực kỹ thuật cụ thể khiến người ta thận trọng trong đánh giá chất lượng các hệ thống hiện tại và dự báo tình hình phát triển tương lai trong lĩnh vực này. “Các chuyên gia châu Âu năm 2007 đã có mặt trên tàu khu trục Quảng Châu, lớp Type 052B và đưa ra các kết luận sau đây. Thoạt nhìn, tàu này tương ứng với trình độ thế kỷ XXI. Ở đây có cả cấu trúc thương tầng đơn khối, cả bề ngoài áp dụng các công nghệ bảo đảm độ bộc lộ thấp Stealth.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ lưỡng hơn tàu khu trục này thì thấy khối lượng lớn công nghệ của những năm 1950-1960 đến kinh ngạc. Đó là các hệ thống toàn tàu cũ, kiểu Liên Xô, hệ thống quạt thông gió hành lang rất thô sơ chạy dọc hai mạn tàu đi qua phần thượng tầng từ mũi ra đuôi tàu. Theo các chuyên gia, với hệ thống quạt đó, khi nó bị hư hỏng, việc toàn tàu bị nhiễm khí độc bởi khói do cháy và bởi các chất độc mới nhất sẽ diễn ra nhanh hơn, trước khi thủy thủ đoàn kịp đeo các phương tiện phòng hộ cá nhân. Khi xem xét kỹ trang thiết bị radar thì thấy rằng các đường cáp của đa số các hệ thống không hề được bảo vệ trước tác động điện từ nên rất gọn và đơn giản. Bởi vậy, đa số các chuyên gia cho rằng, hiện thời Trung Quốc còn chưa thể đóng được hạm tàu thật sự hiện đại và cân đối về các hệ thống chiến đấu và kỹ thuật” [lvii].
Điều đó cho thấy rằng, các công việc nghiên cứu hiệu quả trong lĩnh vực này không được tiến hành. Hơn nữa, tại Trung Quốc tồn tại những quy định, tiêu chuẩn hoàn toàn không đáp ứng triển vọng phát triển khoa học và kỹ thuật. Đa số các chuyên gia cho rằng, trong điều kiện hiện nay, Trung Quốc sẽ đơn giản hơn khi thiết kế và chế tạo bom nguyên tử và tên lửa đẩy vũ trụ hơn là phát triển một động cơ turbine phản lực có tính kinh tế cao bình thường dành cho máy bay chở khách” [lviii].
9. Kết luận chung mà các chuyên gia N. Novichkov và V. Nikolsky đưa ra thật không dễ chịu đối với hải quân Trung Quốc: “Nhưng điều mất mặt nhất đối với người Trung Quốc là ngoài tên lửa đường đạn, họ không có các mẫu vũ khí và trang bị hải quân có chất lượng. Những thứ họ đang có là những mẫu sao chép, chế tạo tụt hậu 10-15 năm, với các tính năng tồi hơn so với các mẫu nguyên bản. Chẳng hạn, hải quân Trung Quốc không có pháo tự động tất cả các cỡ, ngư lôi và thủy lôi do Trung Quốc tự phát triển.
10. Sau khi xem xét, một chuyên gia đã đưa ra đánh giá như sau về công việc của các nhà thiết kế tàu khu trục của hải quân Trung Quốc: “Thậm chí các tàu khu trục lơp Projekt 956E còn lâu nữa vẫn sẽ là tàu vũ trụ đối với họ...”.
11. Gây ngạc nhiên không ít là những cánh cửa kín khí, kín nước mà cấu trúc có thể làm cho chúng biến dạng và hỏng khi chịu hư hại trong chiến đấu hoặc khi có bão mạnh. Nhiều hệ thống vũ khí (ống phóng lôi 324 mm, bệ phóng bom phản lực...) chỉ có cơ cấu dẫn động bằng tay, điều rất đáng ngạc nhiên đối với một chiến hạm có mật độ trang bị thiết bị vô tuyến điện tử hiện đại khá cao như vậy.
12. Bằng chứng rất khó chịu, nhưng rất điển hình do N. Novichkov và V. Nikolsky đưa ra đáng để trích dẫn cụ thể.
13. Đồng thời, kết luận của Yu.V. Vedernikov đưa ra vào năm 2008 trong tổng quan các thành tựu công nghệ đóng tàu khu trục của Trung Quốc rằng, “... hiện tại, vào thời điểm cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, các tổ hợp đóng tàu và công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đã hoàn toàn làm chủ việc sản xuất các mẫu vũ khí và trang bị hiện đại cho các hạm tàu của mình” [lvi], hiện nay, sau khoảng 6 năm, có thể bị nghi vấn.
Tuy vậy, không thể xem nhẹ trình độ mà Trung Quốc đã đạt được, kể cả khi xét đến những đánh giá có cơ sở đó. Quan điểm của Mỹ đối với sự phát triển tiềm lực quân sự của Trung quốc, trong đó có các lớp tàu chiến mặt nước chủ lực là rất đáng lưu ý. Với những nguồn lực và nỗ lực mà Trung Quốc đang đầu tư cho xây dựng quân đội, vào lúc nào đó, những đánh giá mà N. Novichkov và V. Nikolsky dẫn ra đơn giản là có thể không còn sát nữa và lúc đó sẽ chỉ còn cách nhớ lại những cảnh báo lặp đi lặp lại của A. Khramchkhin về con rồng đã thức giấc.
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc (1)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Tàu khu trục (2)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Frigate, corvette... (3)
Tài liệu tham khảo:
[i] US Department of Defense. Annual report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China 2014. April 2014, 18.
[ii] US Department of Defense. Annual report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China 2014. April 2014, 7.
[iii] US Department of Defense. Annual report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China 2014. April 2014, 77.
[iv] US Department of Defense. Annual report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China 2014. April 2014, 86 (Appendix A. January 2014 ONI Testimony).
[v] Anthony H. Cordesman. Chinese Strategy and Military Power in 2014. CSIS, November 2014, p. 234. Ronald O'Rourke. China Naval Modernization: Implications for U.S. Navy Capabilities—Background and Issues for Congress. December 23, 2014, p. 29.
[vi] Ronald O'Rourke. China Naval Modernization: Implications for U.S. Navy Capabilities—Background and Issues for Congress. December 23, 2014, p. 25.
[vii] Ronald O'Rourke. China Naval Modernization: Implications for U.S. Navy Capabilities—Background and Issues for Congress. December 23, 2014, p. 29.
[viii] Сведения в данном разделе основываются на различных источниках, включая, но не ограничиваясь,
Jane’s Fighting Ships 2004-2005, www.globalsecurity.org, www.naval-technology.com, ships.bsu.by, Ю.В.Ведерников «Китайские эсминцы: общие и частные аспекты эволюции» (http://flot.com/publications/books/shelf/vedernikov/chinadestroyers/).
[ix] Ю.В.Ведерников «Китайские эсминцы: общие и частные аспекты эволюции», с. 3 (http://flot.com/publications/books/shelf/vedernikov/chinadestroyers/).
[x] Ю.В.Ведерников «Китайские эсминцы: общие и частные аспекты эволюции», с. 4 (http://flot.com/publications/books/shelf/vedernikov/chinadestroyers/).
[xi] Type 051C / Luzhou Class Guided Missile Destroyers, China (http://www.naval-technology.com/projects/type051cluzhoclassgu/).
[xii] На основе анализа фотографий, размещенных: Ю.В.Ведерников «Китайские эсминцы: общие и частные аспекты эволюции», с. 3. (http://flot.com/publications/books/shelf/vedernikov/chinadestroyers/).
[xiii] Type 051C / Luzhou Class Guided Missile Destroyers, China (http://www.naval-technology.com/projects/type051cluzhoclassgu/).
[xiv] Сайт http://www.naval-technology.com для этого типа приводит иные данные по ракете YJ-83, нежели для эсминца тип 051С: дальность пуска до 200 km с возможностью получения целеуказания в полете.
[xv] Luyang-II Class / Type 052C Destroyer, China (http://www.naval-technology.com/projects/luyangclassmissilede/).
[xvi] PLA commissions sixth Type 052C destroyer - Want China Times, 2015-02-15 (http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.aspx?id=20150215000111&cid=1101).
[xvii] PLA looks to add more Type 052D destroyers, 2014-10-13 (http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.aspx?id=20141013000008&cid=1101).
[xviii] Данные сайта ship.bsu.by.
[xix] Там же допущена ошибка - «посредством замены четырех автоматов «АК-630М» на столько же боевых модулей ЗРАК «Каштан»» - замена была на 2 модуля более тяжелого и габаритного ЗРАК; см. Ю.В.Ведерников «Китайские эсминцы: общие и частные аспекты эволюции», с. 6. (http://flot.com/publications/books/shelf/vedernikov/chinadestroyers/).
[xx] Эскадренные миноносцы проекта 956ЭМ (Россия/Китай) (http://bastion-opk.ru/project-956em/ ).
[xxi] Ю.В.Ведерников «Китайские эсминцы: общие и частные аспекты эволюции», с. 5 (http://flot.com/publications/books/shelf/vedernikov/chinadestroyers/).
[xxii] Anthony H. Cordesman. Chinese Strategy and Military Power in 2014. CSIS, November 2014, p. 242.
[xxiii] http://bastion-opk.ru/moskit-p-100/
[xxiv] Gabe Collins, Morgan Clemens, and Kristen Gunness. The Type 054/054A Frigate Series: China’s All-Purpose Surface Combatant. P. 4 - The Study of Innovation and Technology in China, Policy Brief 2014-10, January 2014.
[xxv] Type 054A (Jiangkai II) Class Frigate, China (http://www.naval-technology.com/projects/type-054a-jiangkai-ii-class-frigate/).
[xxvi] Huanggang frigate, China's latest anti-submarine weapon (2015-01-20)(http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.aspx?cid=1101&MainCatID=&id=20150120000130).
[xxvii] Chinese Navy (PLAN) Commissioned its First Upgraded Type 054A Frigate with new H/PJ-11 CIWS (Monday, 19 January 2015 10:55)(http://www.navyrecognition.com/index.php/news/defence-news/year-2015-news/january-2015-navy-naval-forces-defense-industry-technology-maritime-security-global-news/2342-chinese-navy-plan-commissioned-its-first-upgraded-type-054a-frigate-with-new-hpj-11-ciws.html).
[xxviii] Gabe Collins, Morgan Clemens, and Kristen Gunness. The Type 054/054A Frigate Series: China’s All-Purpose Surface Combatant. P. 2 - The Study of Innovation and Technology in China, Policy Brief 2014-10, January 2014.
[xxix] China Brief. Jamestown Foundation. Volume XV, Issue 7, April 3, 2015, p. 1.
[xxx] PLA task force enters Black Sea before Xi's Russia visit, 2015-05-05 (http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.aspx?id=20150505000147&cid=1101).
[xxxi] PLA to use naval drill as shop window for Type 054A frigate, 2015-05-03 (http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.aspx?cid=1101&MainCatID=11&id=20150503000007).
[xxxii] Ronald O'Rourke. China Naval Modernization: Implications for U.S. Navy Capabilities—Background and Issues for Congress. December 23, 2014, p. 29.
[xxxiii] Anthony H. Cordesman. Chinese Strategy and Military Power in 2014. CSIS, November 2014, p. 235.
[xxxiv] Jiangdao Class (Type 056) Corvette, China (http://www.naval-technology.com/projects/jiangdao-class-type-056-corvette/).
[xxxv] China Looks to the Future With New Corvette. By James C. Bussert, SIGNAL Magazine, May 2011 (http://www.afcea.org/content/?q=china-looks-future-new-corvette).
[xxxvi] Anthony H. Cordesman. Chinese Strategy and Military Power in 2014. CSIS, November 2014, p. 235.
[xxxvii] Taiwan Navy Accepts New Catamaran, Wendell Minnick, December 31, 2014 (http://www.defensenews.com/story/defense/naval/ships/2014/12/31/taiwan-navy-catamaran-corvette/21097169/).
[xxxviii] Jane’s Fighting Ships, 2004-2005, p. 135.
[xxxix] Insight: From a ferry, a Chinese fast-attack boat. By D. Lague, Jun 1, 2012 (http://www.reuters.com/article/2012/06/01/us-china-military-technology-idUSBRE84U1HG20120601).
[xl] Taiwan Navy Accepts New Catamaran, Wendell Minnick, December 31, 2014 (http://www.defensenews.com/story/defense/naval/ships/2014/12/31/taiwan-navy-catamaran-corvette/21097169/).
[xli] Anthony H. Cordesman. Chinese Strategy and Military Power in 2014. CSIS, November 2014, p. 244.
[xlii] Р. Ангельский, В. Коровин. Комплексы ближнего рубежа. «Техника и вооружение», № 6, 2014, стр. 21.
[xliii] Luyang III / Type 052D Multirole Destroyer (http://www.globalsecurity.org/military/world/china/luyang-iii.htm).
[xliv] PLA commissions sixth Type 052C destroyer, 2015-02-15 (http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.aspx?id=20150215000111&cid=1101).
[xlv] PLA looks to add more Type 052D destroyers, 2014-10-13 (http://www.wantchinatimes.com/news-subclass-cnt.aspx?id=20141013000008&cid=1101).
[xlvi] DDG-51 ARLEIGH BURKE-class (http://fas.org/man/dod-101/sys/ship/ddg-51.htm).
[xlvii] Luyang III / Type 052D Multirole Destroyer (http://www.globalsecurity.org/military/world/china/luyang-iii.htm).
[xlviii] Р. Ангельский, В. Коровин. Зенитный ракетный комплекс М-22 Uragan. «Техника и вооружение», № 1, 2014, с. 9, 11.
[xlix] Р. Ангельский, В. Коровин. Зенитный ракетный комплекс М-22 Uragan. «Техника и вооружение», № 1, 20124, с. 10, 13.
[l] Например, Jane’s Fighting Ships 2004-2005, p. 124.
[li] Office of Naval Intelligence. The PLA Navy. New Capabilities and Missions for the 21th Century, 2015, p. 15-16.
[lii] Dennis M. Gormley, Andrew S. Erickson, and Jingdong Yuan. A Potent Vector. Assessing Chinese Cruise Missile
Developments. - Joint Force Quarterly, Issue 75, 4th quarter 2014, p. 100.
[liii] Обзор по ПКР сделан по Dennis M. Gormley, Andrew S. Erickson, and Jingdong Yuan. A Potent Vector. Assessing Chinese Cruise Missile Developments. - Joint Force Quarterly, Issue 75, 4th quarter 2014, p. 99-103.
[liv] Ю.В.Апальков. Корабли ВМФ СССР. Справочник в 4-ч томах. Том III. Противолодочные корабли. Часть I. Противолодочные крейсера, большие противолодочные и сторожевые корабли. - СПБ: «Галея Принт», 2005. - С. 53-61.
[lv] Ю.В.Апальков. Ударные корабли. Справочник. - М: «Моркнига», 2010. - С. 62-69.
[lvi] Ю.В.Ведерников «Китайские эсминцы: общие и частные аспекты эволюции», стр. 7.
[lvii] ВМС Китая сегодня и завтра — часть II. Реальны ли претензии Поднебесной на лидерство в мировом океане? Николай Новичков, Владислав Никольский - «Военно-промышленный курьер», № 21 (438) за 30 мая 2012 г.
[lviii] Там же.
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc (1)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Tàu khu trục (2)
>> Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc: Frigate, corvette... (3)