Vietnamdefence.com

 

Pháo binh Trung Quốc

VietnamDefence - Bộ đội tên lửa và pháo binh là một binh chủng của Lục quân Trung Quốc, dùng để sát thương đối phương hỏa lực trong tất cả các loại hình, hình thức tác chiến, được đánh giá là một trong những lực lượng pháo binh mạnh nhất thế giới.

Quân đội Trung Quốc sở hữu gần 2.000 hệ thống rocket phóng loạt các loại (www.mod.gov.cn)
Bộ đội tên lửa và pháo binh là một binh chủng của Lục quân Trung Quốc, dùng để sát thương đối phương hỏa lực trong tất cả các loại hình, hình thức tác chiến. Binh chủng này gồm các các đơn vị được trang bị các hệ thống tên lửa chiến thuật, các hệ thống rocket phóng loạt (pháo phản lực) các cỡ, các loại pháo (pháo, lựu pháo, cối), pháo chống tăng và các hệ thống tên lửa chống tăng, cũng như các đơn vị và phân đội trinh sát pháo binh.

Ưu thế lớn của pháo binh 

Tính đến đầu năm 2015, trong Bộ đội tên lửa và pháo binh Lục quân Trung Quốc có hơn 13.178 đơn vị hệ thống vũ khí pháo binh các cỡ loại.

Pháo tự hành: 2.280 khẩu, trong đó: Cỡ 122 mm có 1.600 khẩu (Type 89 - 750 khẩu, Type 07 (PLZ-07) - 300, Type 07В (PLZ-07В) - 150, Type 09 (PLС-09) - 300, Type 09 (PLL-09) - 150; Lựu pháo 152 mm Type 83АВ - 390, lựu pháo 155 mm Type 05 (PLZ-05) - 290 khẩu).

Pháo kéo: 6.140 khẩu, trong đó: Cỡ 122 mm - 3.800 khẩu (Các loại pháo Type 54-1/Type 83/Type 69 (D-74)/Type 96 (D-30); Cỡ 130 mm - 234 khẩu (Type 59 (М-46) /Type 59-1); Cỡ 152 mm - 2.106 khẩu (Type 54 (D-1) /Type 66 (D-20).

Lựu pháo/cối tự hành: 300, trong đó: 200 Type 05 (PLL-05) và 100 Type 05А (PLL-05А).

Hệ thống rocket phóng loạt: Hơn 1.870 hệ thống, trong đó: tự hành - 1.810 hệ thống, cỡ 122 mm - 1.643 hệ thống (trong đó 1.250 Type 81, 375 Type 89 (PHZ-89), 18 hệ thống Type 10 (PHZ-10)); Cỡ 300 mm - 175 khẩu (Type 03 (PHL-03).

Cối: 2.586 khẩu (82 mm Type 53/Type 67/Type 82/Type 87, 100 mm - Type 89).

Vũ khí chống tăng:

- Các hệ thống tên lửa chống tăng tự hành: 924 hệ thống, trong đó: HJ-8 - 450 hệ thống, HJ-10 - 24 hệ thống, ZSL-02В - 450 hệ thống;
- Pháo không giật: 3.966 khẩu, trong đó: 75 mm Type 56, 82 mm Type 65 (В-10)/Type 78, 105 mm Type 75 và 120 mm Type 98;
- Pháo chống tăng: 1.788 khẩu, trong đó: pháo tự hành - 480 khẩu, pháo Type 02 (PTL-02) - 250 khẩu, pháo 120 mm Type 89 (PLZ-89) - 230 khẩu;
- Pháo kéo chống tăng: 1308 khẩu (Type 73 (Т-12)/Type 86).

Hệ thống trinh sát-hỏa lực

Trong quá trình hiện đại hóa Bộ đội tên lửa và pháo binh Lục quân Trung Quốc, giới lãnh đạo quân đội Trung Quốc đặt ra nhiệm vụ cuối cùng biến lực lượng này thành một hệ thống trinh sát-hỏa lực có khả năng sát thương tầm xa đối phương bằng hỏa lực.

Các hệ thống tên lửa chiến thuật tương lai có tầm xa và độ chính xác cao, các hệ thống rocket phóng loạt có khả năng tự động dẫn đến mục tiêu và hiệu chỉnh quỹ đạo bay của đạn phản lực, cũng như các pháo tự hành có tốc độ và hiệu suất bắn cao được trù tính sử dụng làm thành phần hỏa lực của hệ thống này.

Các lực lượng chống tăng dự tính được trang bị các hệ thống tên lửa chống tăng thế hệ mới, có khả năng xuyên phá hiệu quả vỏ giáp bảo vệ của tất cả các loại xe tăng hiện đại và tương lai của đối phương trong điều kiện tầm nhìn hạn chế.

Thành phần trinh sát của các hệ thống trinh sát-tiến công và trinh sát-hỏa lực sẽ là các hệ thống vũ trụ, máy bay trinh sát, máy bay không người lái và các phương tiện khác, cho phép ở chế độ cận thời gian thực và với độ chính xác cao phát hiện các mục tiêu của các cụm lực lượng đối phương và bảo đảm thông tin chỉ thị mục tiêu, cũng như thực hiện hiệu chỉnh hỏa lực. Bộ đội tên lửa và pháo binh Lục quân Trung Quốc cũng đã bắt đầu nhận vào trang bị các kiểu loại máy bay không người lái khác nhau.

Cơ cấu tổ chức hoàn thiện

Bộ đội tên lửa và pháo binh Lục quân Trung Quốc có trong biên chế các lữ đoàn pháo, tên lửa chống tăng độc lập, cũng như các lữ đoàn tên lửa chiến dịch-chiến thuật. Các đơn vị pháo binh (trung đoàn, tiểu đoàn) được biên chế vào các lữ đoàn cơ giới hóa và lữ đoàn tăng.

Biên chế của lữ đoàn pháo nằm trong cơ cấu Lực lượng phản ứng nhanh mà quân số trong Lục quân Trung Quốc liên tục tăng, gồm có: 4 tiểu đoàn pháo tự hành và 1 tiểu đoàn pháo chống tăng tự hành (18 pháo chống tăng tự hành Type 89 cỡ 120 mm).

Ở đây cũng nên nêu ra tính năng kỹ-chiến thuật của một số hệ thống pháo và tên lửa phổ dụng nhất và khá hiện đại của Lục quân Trung Quốc. Ví dụ, pháo/lựu pháo tự hành 152 mm Type 83 lắp trên khung gầm xích nội địa chuẩn hóa. Về bề ngoài và cấu tạp, nó gần như giống hệt pháo/lựu pháo tự hành cùng cỡ 2S3 Akatsya của Liên Xô/Nga. Cơ số đạn gồm các phát bắn với đạn phá-mảnh, phản lực tích cực, xuyên bê tông, xuyên giáp-vạch đường, xuyên lõm, hóa học và chiếu sáng. Pháo/lựu pháo tự hành Type 83 có vỏ giáp chống đạn con (chống mảnh), hệ thống nạp đạn kiểu bán tự động.

Hiện đại nhất trong các pháo/lựu pháo tự hành là Type 05 (PLZ-05) 155 mm. Đây là pháo sao chép loại pháo nổi tiếng 2S19 Msta-S của Nga, nhưng có một số cải tiến riêng.

Các biến thể mới của loại pháo này có tốc độ bắn cao hơn, được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tự động hóa hiệu quả hơn, khí tài định vị, các phương tiện giảm độ bộc lộ ở các dải radar, hồng ngoại và quang học.

Các lựu pháo 152 mm và 155 mm có thể bắn loại đạn điều khiển bằng laser do Trung Quốc phát triển dựa trên đạn điều khiển bằng laser 152 mm Krasnopol của Nga mà Trung Quốc sản xuất theo giấy phép. Loại đạn này có thể dùng để chế áp các hỏa điểm của đối phương (tác chiến phản pháo), tiêu diệt các xe tăng, xe thiết giáp, sở chỉ huy và các công trình phòng ngự nhẹ… của đối phương.

Ưu tiên cho pháo phản lực...

Trung Quốc đặc biệt chú trọng phát triển các hệ thống rocket phóng loạt. Xét về trình độ khoa học kỹ thuật của các sản phẩm và công nghệ, Trung Quốc đã không chỉ đuổi kịp các nước sản xuất vũ khí hàng đầu, mà còn vượt họ về nhiều mặt.

Trong các hệ thống rocket phóng loạt Trung Quốc, có hệ thống hạng nặng Type 03 (PHL-03) 10 nòng 300 mm với tính năng chiến đấu độc đáo, phát triển dựa trên hệ thống 9K58 Smerch 12 nòng 300 mm của Liên Xô/Nga. Hệ thống này bao gồm 1 xe bệ phóng và 1 xe tiếp đạn dùng khung gầm ô tô việt dã hạng nặng WS-2400 với công thức bánh 8х8 vốn sao chép ô tô MAZ-543 của Liên Xô, cũng như 1 xe điều khiển hỏa lực dùng khung gầm ô tô 3 trục được trang bị hệ thống máy tính hóa và các khí tài định vị vệ tinh và trắc đạc. PHL-03 bắn các loại đạn phản lực ổn định khi bay bằng chuyển động quay như: đạn chùm mang các đạn con chống tăng xuyên lõm và đạn phá-mảnh.

Để sử dụng các hệ thống rocket phóng loạt này, Trung Quốc đang phát triển các đạn phản lực tầm xa có điều khiển. Theo một quan chức của NORINCO, công ty phát triển PHL-03, tầm bắn tối đa của biến thể mới nhất của hệ thống này đã lên tới 150 km. Trên cơ sở PHL-03, Trung Quốc đã chế tạo 3 mẫu hệ thống rocket phóng loạt khác có tên là AR1 (300 mm, 8 nòng), AR1A (300 mm, 10 nòng) và AR3 (370 mm, 8 nòng) mà theo báo chí Trung Quốc là có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở tầm đến 220 km.

...và tấn công bằng tên lửa

Phương tiện tiến công uy lực hơn có trong trang bị của Bộ đội tên lửa và pháo binh Lục quân Trung Quốc là các hệ thống tên lửa chiến dịch-chiến thuật. Chúng dùng để tiêu diệt các cụm lực lượng đối phương, sở chỉ huy (kể cả nằm sâu dưới đất), các tên lửa đường đạn, các hệ thống phòng không/phòng thủ tên lửa, các trạm radar, sân bay, kho tàng lớn...

Một trong những vũ khí hiện đại nhất trong trang bị của Bộ đội tên lửa và pháo binh Lục quân Trung Quốc là tên lửa đường đạn nhiên liệu rắn cơ động Đông Phong 11А (DF-11А; NATO gọi là CSS-C-7 Mod2) lắp trên khung gầm ô tô việt dã 4 trục. DF-11A có trọng lượng phóng 6,35 tấn, trọng lượng phần chiến đấu 500-800 kg, tầm bắn tối đa 300 km, sai số vòng tròn xác suất 200 m. Tên lửa có thể mang đầu đạn hatjk nhân hoặc đầu đạn thông thường kiểu nổ phá. DF-11A cũng được trang bị cho Lực lượng Tên lửa (trước đây là Lực lượng pháo binh 2, tức là lực lượng tên lửa chiến lược) của quân đội Trung Quốc.

Nguồn: Thần chiến tranh của Trung Quốc / Aleksandr Vasilevich Shlyndov, Đại tá về hưu, PTS sử học, nghiên cứu viên chính Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga // NVO, 30.10.2015.

Print Print E-mail Print