Vietnamdefence.com

 

5 vũ khí sẽ thay đổi chiến tranh

VietnamDefence - Các hệ thống vũ khí mà hầu hết đang trong giai đoạn phát triển và có thể thay đổi bản chất chiến tranh trong tương lai.

Dự đoán 5 loại vũ khí sẽ có ảnh hưởng lớn nhất đối với tác chiến tương lai là một vấn đề khó khăn vì bản chất của chiến tranh là linh động và liên tục thay đổi. Một hệ thống có thể là một phương tiện thay đổi cuộc chơi trong cuộc đại đối đầu giữa hai lực lượng thông thường chẳng hạn như Trung Quốc và Mỹ lại có thể chả mấy tác dụng trong một kịch bản phi đối xứng tiêu hao lực lượng trong chiến trường đô thị (ví dụ, các lực lượng Israel đối mặt với quân du kích Palestine ở dải Gaza hay Hezbollah của Li-băng ở ngoại ô Beirut).

Các tiêm kích tàng hình thế hệ 5 tốt nhất thế giới có thể là một phương tiện thay đổi cuộc chơi trong một số hoàn cảnh, nhưng tốc độ khủng khiếp và nhưng không có khả năng hoạt động lâu của chúng khiến chúng không phù hợp để phát hiện và tấn công các đơn vị nhỏ của tay súng tự do hoạt động trong một thành phố, chưa kể rằng việc sử dụng các phương tiện này để giết một vài tay súng không chính quy trang bị súng AK-47 không thể coi là giải pháp có tiêu chí chi phí/hiệu quả cao được. Các lực lượng đặc nhiệm được trang bị áo giáp siêu tàng hình và súng trường tiến công nhẹ bắn đạn cỡ nhỏ “thông minh” sẽ hiệu quả hơn nhiều và rẻ hơn nhiều.

Một khía cạnh đầy thách thức khác là định nghĩa vũ khí nào có tính cách mạng trong bối cảnh phát triển vũ khí như hiện nay. Chúng ta chỉ định lượng tác động của vũ khí bằng thước đo uy lực phá hoại và gây tổn thất? Hoặc ngược lại, bởi khả năng của vũ khí đạt được các mục tiêu chiến tranh, trong khi giảm tối đa tổn thất sinh mạng? Một “vũ khí” có thể xóa bỏ hoàn toàn chiến tranh động năng, có thể là bằng cách vô hiệu hóa trước khả năng của kẻ địch tiến hành các chiến dịch quân sự thì sao đây?

Tuy nhiên với bản chất có tính kịch bản ngẫu nhiên của chiến tranh, chúng ta vẫn có thể cố lập một danh sách các hệ thống vũ khí mà hầu hết trong số đó là đã ở trong giai đoạn phát triển và có thể thay đổi bản chất chiến tranh. Bằng cách cố gắng cân bằng giữa chiến tranh quy ước và các hoạt động tác chiến phi quy ước, danh sách lập ra đương nhiên là chưa kết thúc, nhưng cho thấy các xu hướng về hình thái chiến tranh có khả năng ảnh hưởng đến thế giới chúng ta trong nhiều thập kỷ tới.

5. “Siêu tàng hình” hay “Tàng hình lượng tử”

Sử dụng siêu vật liệu tự nhiên, các nhà khoa học đã thiết kế các vật liệu uốn cong sóng ánh sáng có tác dụng làm giảm mạnh độ bộc lộ nhiệt và quang học của một mục tiêu. Nguyên lý khoa học của nó khá đơn giản, mặc dù những người hoài nghi vẫn còn chưa tin và nói rằng, họ sẽ tin nó khi họ không nhìn thấy nó: “Kiểu ngụy trang thích ứng” làm cho những gì nằm phía sau đối tượng phủ vật liệu này bằng cách uốn cong ánh sáng đi quanh nó.

Các tác động quân sự của những phát triển này là hiển nhiên, “các áo choàng tàng hình” này sẽ cho phép các chiến binh, từ những người lính bình thường cho đến lực lượng đặc nhiệm hoạt động trong lãnh thổ đối phương mà không bị phát hiện, hoặc ít ra là giúp cho họ đủ thời gian để giành thể chủ động. Những khả năng đó sẽ làm giảm nguy cơ thương vong trong các hoạt động quân sự, trong khi tăng khả năng phát động các cuộc tấn công phẫu thuật và bất ngờ chống lại kẻ thù, hoặc tiến hành phá hoại và ám sát.

Một công ty Canada nghe nói đã giới thiệu loại vật liệu này với hai nhóm chỉ huy trong quân đội Mỹ và hai nhóm trong quân đội của Canada, cũng như cho các đội chống khủng bố liên bang.

Tất nhiên, công nghệ này cũng sẽ có tác động lớn đến các hoạt động khi nó lọt vào tay các đối thủ phi nhà nước như các lực lượng du kích và các nhóm khủng bố.

4. Pháo ray điện từ

Pháo ray điện tử sử dụng từ trường chứ không phải là thuốc phóng hóa học (như thuốc súng hoặc nhiên liệu) để đẩy một quả đạn đi rất xa ở tốc độ 4.500- 5.600 dặm/h. Công nghệ đang được phát triển đã trình diễn khả năng sử dụng 32 MJ để đẩy một quả đạn đi xa 100 hải lý.

Tốc độ cao và tầm bắn xa của pháo ray điện từ mang lại một số lợi ích cả trong tấn công và phòng ngự, từ tấn công chính xác có thể đối phỏ với các hệ thống phòng ngự khu vực tiên tiến nhất cho đến phòng không chống lại các mục tiêu đang bay đến. Một lợi thế khác của công nghệ này là nhờ có nó mà không còn phải lưu trữ các loại chất nổ nguy hiểm và các vật liệu dễ cháy cần để phóng các quả đạn thông thường.

Một hệ thống pháo ray điện từ hải quân đã được Cục Nghiên cứu Hải quân Mỹ phát triển từ năm 2005. Giai đoạn hiện nay của dự án, bắt đầu vào năm 2012, đang tìm cách trình diễn khả năng bắn ổn định.

Hải quân Mỹ hy vọng cuối cùng tăng được tầm bắn của pháo ray lên đến 200 hải lý bằng năng lượng 64 MJ, nhưng do một phát bắn sẽ cần đến 6.000.000 ampe (lớn hơn cường độ dòng điện gây ra cực quang), sẽ mất nhiều năm nữa các nhà khoa học mới có thể tìm ra cách phát triển các tụ điện có thể tạo ra năng lượng như vậy, hoặc các vật liệu làm pháo không bị phá tan thành từng mảnh trong mỗi phát bắn.

Không chịu thua, Lục quân Mỹ cũng đã phát triển biến thể pháo ray điện từ riêng của mình. Trung Quốc có tin cũng đang phát triển một loại pháo điện từ và ảnh vệ tinh xuất hiện vào cuối năm 2010 cho thấy, việc thử nghiệm đang diễn ra tại một trường thử xe tăng-thiết giáp và pháo binh ở gần Bao Đầu, khu tự trị Nội Mông.

3. Vũ khí vũ trụ

Bất chấp áp lực quốc tế chống quân sự hóa không gian vũ trụ, các nước lớn tiếp tục tìm kiếm các công nghệ có thể biến bầu trời trên đầu chúng ta thành một chiến trường tiếp theo. Các khả năng là vô hạn, từ các bệ phóng tên lửa triển khai trên mặt trăng cho đến các hệ thống chặn bắt và đổi hướng các tiểu hành tinh tới một mục tiêu trên mặt đất. Rõ ràng là không phải tất cả các kịch bản đều là khả thi về kỹ thuật và mãi mãi sẽ vẫn là công cụ của tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Nhưng một số đột phá đang nằm trong tầm với của khoa học hiện tại và sẽ có tác động sâu sắc đến bản chất của chiến tranh như chúng ta biết.

Một khả năng là trang bị cho các tàu vũ trụ vũ khí hạt nhân hoặc xung điện từ (EMP) phi hạt nhân. Bằng cách kích hoạt một vũ khí EMP lắp trên vệ tinh tại độ cao lớn, một bên tham chiến có thể mở một cuộc tấn công phủ đầu vào lưới điện, các vệ tinh, cũng như các hệ thống C4ISR vốn cần để tiến hành hoạt động quân sự của đối phương. Tùy thuộc vào kích thước của vũ khí EMP sử dụng, cuộc tấn công có thể bao trùm cả một quốc gia, hoặc là tấn công chuẩn xác hơn nhắm vào một khu vực tác chiến. Loại vũ khí tàn sát này về lý thuyết có thể chấm dứt chiến tranh trước khi một phát súng được bắn đi, ít nhất là chống một kẻ thù quá dựa vào thông tin như Mỹ  và ít hiệu quả hơn nhiều khi chống lại Taliban hoặc Hamas chẳng hạn.

Các vũ khí EMP bắn từ các phương tiện mang ở độ cao nhỏ hơn hoặc thông qua hệ thống tên lửa trên đất liền như tên lửa đường đạn xuyên lục địa dễ bị chặn đánh hoặc tiến công phủ đầu. Các vũ khí EMP lắp trên vệ tinh gắn thì sẽ nằm ngoài tầm với của hầu hết các nước, ngoại trừ những quốc gia có vũ khí chống vệ tinh triển khai trên mặt đất hay các trạm quỹ đạo. Hơn nữa, thời gian phản ứng đối với một cuộc tấn công vũ trụ ồ ạt sẽ ngắn hơn nhiều, làm giảm khả năng của một quốc gia bị tấn công trong việc đánh chặn vũ khí EMP.

Một công nghệ khác được quan tâm lúc ít lúc nhiều trong nhiều thập kỷ là sử dụng các laser năng lượng cao trên vũ trụ (SBL) để chặn đánh các tên lửa đạn đạo của kẻ thù ngay trong giai đoạn tăng tốc (gọi là “đánh chặn giai đoạn tăng tốc” hoặc BPI). Ưu điểm của BPI là nỗ lực vô hiệu hóa tên lửa đạn đạo xảy ra ngay trong giai đoạn nó bay chậm nhất, do đó xác suất đánh chặn thành công sẽ cao hơn.

Khác với các hệ thống phòng thủ chiến trường đang được sử dụng cho BPI (như Aegis) vốn đòi hỏi phải được triển khai ở gần lãnh thổ đối phương, các vũ khí laser triển khai trên vũ trụ có thể hoạt động ở các độ cao nằm ngoài khả năng của các quốc gia mục tiêu để bắn hạ hoặc vô hiệu hóa trước khi nó khai hỏa. Do có ngày càng nhiều nước có các tên lửa đường đạn tầm xa để mang có thể là đầu đạn hạt nhân, sự quan tâm đến các vũ khí SBL đánh chặn tên lửa và sự sẵn sàng chi tiến tài trợ cho các chương trình tốn kém như vậy rất có thể sẽ tăng lên. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức trong việc phát triển hệ thống laser hóa học công suất cỡ MW lắp trên phương tiện bay vũ trụ.

2. Tên lửa hành trình siêu vượt âm và “Đòn tấn công nhanh toàn cầu”

Nếu có trong tay các tên lửa hành trình siêu vượt âm vào giữa những năm 1990, Mỹ đã có thể diệt trừ đầu sỏ Al Qaeda Osama bin Laden sớm hơn nhiều và đã thực hiện được việc đó ngay tại Afghanistan chứ không phải là ở Pakistan.

Với khả năng đưa chính xác các đầu đạn đi rất xa, các tên lửa hành trình đã có tác động phi thường đối với chiến tranh hiện đại. Nhưng trong thời đại mà thời gian tính bằng phút có thể tạo ra sự khác biệt giữa thất bại và chiến thắng, chúng có vẻ quá chậm. Phải mất 80 phút để một tên lửa hành trình tấn công mặt đất (LACM) phóng từ tàu chiến Mỹ ở biển Arab đến được các trại huấn luyện của Al Qaeda tại Afghanistan vào năm 1998 sau các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào các đại sứ quán Mỹ ở Kenya và Tanzania. Sử dụng tên lửa siêu vượt âm bay ở tốc độ Mach 5 +, có thể vươn tới các mục tiêu đó trong vòng chỉ có 12 phút, đủ ngắn để hành động dựa trên thông tin tình báo xác định vị trí tên trùm khủng bố tại nơi địa bàn mục tiêu.

Mong muốn có thể tấn công bất cứ nơi nào một cách nhanh chóng đã dẫn đến sự ra đời của chương trình được gọi là “Đòn tấn công nhanh toàn cầu” (Prompr Global Strike) mà quân đội Mỹ bắt đầu vào năm 2001. Nỗ lực này đã tập trung vào phương tiện bay siêu vượt âm (HCV) X-51A do một liên danh gồm Không quân Mỹ, hãng Boeing, Cục Các dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến DARPA, Cơ quan Hàng không vũ trụ NASA, hãng Pratt & Whitney Rocketdyne, Cục Động cơ của Phòng Thí nghiệm Không quân Mỹ tiến hành.

Nga, Trung Quốc và Ấn Độ cũng đã có những bước tiến trong việc phát triển công nghệ để có được những thành tựu công nghệ mang phóng đầu đạn thông thường tương tự sử dụng. Điều đó khiến một số nhà phân tích quốc phòng cảnh báo về một cuộc chạy đua vũ khí tiến công toàn cầu đang tăng tốc.

Có tin Hải quân Mỹ đang nghiên cứu khả năng phát triển các tên lửa siêu vượt âm phóng từ tàu ngầm.

Như ví dụ năm 1998 cho thấy, đòn tiến công toàn cầu có thể phục vụ nhiều mục đích, từ các cuộc tấn công chặt đầu chống các nguyên thủ quốc gia, các hệ thống chỉ huy và kiểm soát và các mục tiêu có giá trị cao khác cho đến các đòn tấn công phẫu thuật chống lại các nhóm khủng bố cơ động trong giới hạn thời gian ngắn căn cứ vào thông tin tình báo mặt đất. Tốc độ phi thường của tên lửa hành trình siêu vượt âm và khả năng bay bám địa hình của tên lửa hành trình cũng sẽ đặt ra những thách thức mới trong các nỗ lực đánh chặn các vũ khí này cho các hệ thống phòng không hiện có, điều đó mang lại thêm lợi thế cho chúng trong các tình huống chiến tranh thông thường.

1. Phương tiện không người lái có cảm giác

Có lẽ diễn biến đơn lẻ quan trọng nhất trong ngành công nghiệp quốc phòng thập kỷ qua là sự xuất hiện của các phương tiện không người lái. Cùng với sự tiến bộ của công nghệ, các máy bay không người lái (UAV) đang nhanh chóng tiếp quản các nhiệm vụ vốn thường là do con người đảm nhận. Sự trỗi dậy của UAV đã khiến một số nhà bình luận cho rằng, UAV một ngày nào đó sẽ biến các phi công con người trở nên lỗi thời.

Nhưng các phương tiện không người lái hiện nay, từ các xe gỡ bom cho đến các tàu ngầm mini dưới mặt biển, từ các trực thăng giám sát trên hạm cho đến các máy bay không người lái sát thủ từ trên cao, vẫn còn ngu ngốc và phần lớn vẫn cần một chút sự can thiệp của con người.

Hầu hết các phương tiện này không chỉ được điều khiển từ xa bởi con người (mặc dù với tự động hóa ngày càng tăng), nhưng các công việc quan trọng, chẳng hạn như phát hiện mục tiêu và quyết định phóng tên lửa Hellfire vào một mục tiêu, tiếp tục đòi hỏi phải có sự giám sát của con người.

Điều này có thể sớm thay đổi khi các nhà khoa học thúc đẩy những ranh giới của trí tuệ nhân tạo, điều có thể một ngày nào đó mở ra cánh cửa cho các máy bay không người lái độc lập ra “các quyết định” có ý nghĩa sinh tử. Tất nhiên, các phương tiện không người lái, hay robot nói chung, không phải là thông minh theo nghĩa con người của từ này, cũng không thể được cho là có cảm giác. Nhưng những tiến bộ trong khả năng tính toán đang mang lại cho các cỗ máy khả năng nhận thức tình huống và khả năng thích ứng cao hơn. Khi những khả năng tiếp tục cải thiện, các UAV có thể một ngày nào đó trở thành cá vũ khí bắn-quên với phạm vi quan sát tập trung và sự bền bỉ hơn con người, có khả năng kéo dài thời gian hoạt động trên một mục tiêu trong vài giờ và ra các quyết định trong tích tắc để tấn công khi xuất hiện cơ hội. Hơn nữa, các ưu tiên dành các vai trò chiến đấu cho các cỗ máy và giao phó cho chúng việc ra các quyết định sống và chết sẽ tiếp tục tăng khi mà chi phí liên quan đến đào tạo và duy trì binh sĩ tiếp tục tăng (một bất lợi khác của việc sử dụng binh lính là họ có gia đình và những người thân yêu luôn nhớ thương họ).

Cấp giấy phép giết người cho các robot chỉ là bước logic tiếp theo trong bản chất chiến tranh đang ngày càng giống như trò chơi video. Việc triển khai chúng bổ sung thêm một lớp khoảng cách vào giữa các thủ phạm bạo lực và nạn nhân, làm giảm ngưỡng tâm lý trong việc sử dụng vũ lực. Một khi quyết định cho phép máy bay thực hiện nhiệm vụ chiến đấu được đưa ra, người ta sẽ ưu tiên biến chúng thành các phương tiện càng “tự do” càng tốt do bên nào ra tay nhanh nhất, với ít cấp quyết định nhất và sự tham gia của con người nhất thì có khả năng chiếm ưu thế trong cuộc đối đầu. 

Nguồn: Five Futuristic Weapons That Could Change Warfare / J. Michael Cole // National Interest, 12.2.2014.

Print Print E-mail Print