Năm 1984, tổng công ty sản xuất vũ khí nhà nước Trung Quốc NORINCO đã phát
triển loại xe tăng chủ lực mới Type 80-I. Xe tăng này có thân xe kiểu hàn,
thiết kế mới với vỏ giáp nhiều lớp ở phần đầu xe và bộ phận vận hành
mới với 6 bánh lăn. Tháp xe hoàn toàn lấy từ xe tăng Туре 79, nhưng độ dày phần mặt trước tháp
tăng lên đến 250 mm. Trên xe Type 80-I có lắp pháo nòng rãnh 105 mm và hệ thống
điều khiển hỏa lực Type 37A. Thiết bị đo xa laser được bố trí trên mặt nạ pháo (Tấm
giáp che phần gốc nòng pháo trên tháp xe).
Trên xe tăng lắp pháo nòng rãnh 83 cỡ 105 mm, được ổn định 2 mặt phẳng. Pháo có áo cách nhiệt làm bằng hợp kim nhôm. Góc dẫn theo phương đứng (góc tầm) là từ -4 đến +18 độ. Các loại đạn biên chế gồm đạn xuyên giáp dưới cỡ, vạch đường có sơ tốc 1.455 m/s, đạn xuyên lõm, vạch đường (1173 m/s) và đạn phá-mảnh (850 m/s). Cơ số đạn pháo trên xe gồm 48 phát bắn để trên các giá đạn trong khoang chiến đấu và khoang lái. Tốc độ bắn 7 phát/phút; nạp đạn bằng tay.
Xe tăng được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến Type 37A phát triển với sự hợp tác của hãng Marconi của Anh. Hệ thống điều khiển hỏa lực gồm bộ ổn định pháo, các máy ngắm kết hợp của trưởng xe và pháo thủ, thiết bị đo xa laser được tích hợp vào máy ngắm của pháo thủ, và máy tính đường đạn. Tất cả các khí tài quang đều có lớp phủ đặc biệt để bảo vệ chống bức xạ hạt nhân. Ngoài ra, còn lắp hệ thống lắp liền chuyên dụng cân chỉnh các máy ngắm mà cả trưởng xe và pháo thủ đều có thể sử dụng.
Vũ khí bổ trợ bao gồm: súng máy đồng trục 7,62 mm và súng máy phòng không 12,7 mm lắp trên giá súng ở cửa nắp dành cho pháo thủ nạp đạn. Hai bên sườn tháp lắp mỗi bên 4 ống phóng lựu khói bố trí 2 ống một cụm. Trưởng xe và pháo thủ đều có thể điều khiển bắn các ống phóng lựu khói. Phía sau các ống phóng lựu khói bố trí các hòm chứa đạn lựu khói dự trữ. Ở phần đuôi tháp có giỏ dạng lưới để chứa đồ dùng, gắn với thùng chứa ống thông hơi của bộ thiết bị lội ngầm.
Trên xe lắp động cơ diesel tăng áp VR36 (12150L-BW) công suất 730 mã lực. Khác với các loại xe tăng trước đó, trên Type 88 có 2 ống xả dẫn ra sườn xe bên phải, chứ không phải bên trái. Các thùng dầu bên ngoài được dịch chuyển từ tấm che xích bên phải sang bên trái. Trên tấm che xích bên phải bố trí các hòm phụ tùng.
Bộ phận vận hành gồm 6 bánh lăn kép mỗi bên, có đường kính nhỏ hơn so với Type 59 và Type 69. Các bánh lăn là loại dùng cho khung gầm xích vạn năng Type 321. Xích xe có các gối cao su chạy đường nhựa.
Xe tăng được trang bị hệ thống phòng hộ hạt nhân tập thể kiểu tạo khí dư trong khoang xe, hệ thống chống cháy tự động và hệ thống khói nhiệt.
Với trọng lượng 38,5 tấn, xe tăng có tốc độ tối đa 60 km/h. Dự trữ hành trình 430 km.
Trong quá trình sản xuất, Type 88 liên tục được hiện đại hóa. Nhanh chóng xuất hiện mẫu Type 88A (ZTZ88A) với pháo 105 mm có nòng được kéo dài thêm 1 m. Pháo này có tên 83-I. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ sản xuất 1 mẫu xe này. Tình hình với mẫu Type 88В (ZTZ88В) thì khác. Biến thể này có hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến và pháo hiện đại hóa. Hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến ISFCS-212, ngoài máy ngắm kết hợp của trưởng xe và thiết bị ổn định vũ khí, còn gồm máy ngắm ngày/đêm tích hợp mới dành cho pháo thủ với trường nhìn ổn định và thiết bị đo xa laser lắp liền, máy tính đường đạn số cải tiến với các sensor độ nghiêng của bệ đỡ và trục pháo, sensor gió và bảng điều khiển. Tất cả dữ liệu được tự động đưa vào máy tính để máy tính xử lý, tính toán các hiệu chỉnh cần thiết và hiển thị chúng trong trường nhìn của máy ngắm. Pháo 83 nòng rãnh, cỡ 105 mm có phần khóa nòng được sửa đổi để bắn được các loại đạn mới do NORINCO phát triển (các loại đạn phá-mảnh, xuyên lõm, dưới cỡ uy lực mạnh). Có lẽ tất cả các xe tăng Type 88 đã được nâng cấp lên 88В khi tiến hành sửa chữa định kỳ.
Type 88 được sản xuất tại Nhà máy số 617 ở Bao Đầu đến năm 1995. Trong 7 năm, đã sản xuất gần 500 xe. Type 88 chỉ được trang bị cho quân đội Trung Quốc. Xe tăng này lần đầu tiên được giới thiệu với công chúng tại cuộc duyệt binh ở Bắc Kinh vào năm 1989.
Biến thể xuất khẩu
Vào đầu thập niên 1990, NORINCO đã phát triển xe tăng chủ lực Type 85-IIM để xuất khẩu sang Pakistan. Vào năm 1992, kết thúc thử nghiệm và bắt đầu sản xuất loạt xe tăng này. Theo thỏa thuận Trung Quốc-Pakistan, ban đầu Trung Quốc đã cung cấp các xe tăng thành phẩm, sau đó cung cấp các bộ phận chủ yếu và tổng thành để lắp ráp tại nhà máy của công ty Heavy Industries Taxila Pakistan, còn sau khi Pakistan làm chủ hoàn toàn được công nghệ sản xuất thân và tháp xe thì Type 85-IIM đã được sản xuất hoàn toàn ở Pakistan. Các xe tăng này được đặt tên là Type 85-IIAP. Ngoài ra, tại Trung Quốc cũng còn mấy mẫu thử nghiệm để tiếp tục thử nghiệm. Tổng cộng đã sản xuất gần 300 xe này. Hiện tại, việc sản xuất tăng này đã chấm dứt. Trong trang bị quân đội Pakistan có gần 260 xe tăng Type 85-IIAP.
Xe tăng có cấu tạo truyền thống với khoang lái ở đầu xe, khoang chiến đấu ở giữa và khoang động cơ-truyền lực ở đuôi. Thân và tháp có vỏ giáp nhiều lớp phức hợp ở hình chiếu phía trước, khi cần có thể bổ sung thêm giáp treo phản ứng nổ.
Tháp xe được hàn từ các miếng giáp cán và đúc, và có cấu trúc module ở phần trước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay thế các miếng giáp. Các module giáp phía trước với các móc chuyên dụng để thay thế nhanh, còn ở phần trên mỗi khối giáp có một hốc để nhồi vật liệu chèn bằng gồm. Trong phần đuôi tháp bố trí khối điện tử của máy tính đường đạn, cơ số đạn súng máy và một phần thiết bị lội ngầm. Trên nóc tháp bố trí anten vô tuyến điện và sensor gió. Cấu trúc bên trong khoang chiến đấu hoàn toàn giống với xe tăng Т-72 của Liên Xô. Trong tháp chỉ ngồi 2 người của kíp xe là pháo thủ (ngồi bên trái pháo) và trưởng xe (bên phải pháo).
Vũ khí chính là pháo nòng trơn 125 mm do NORINCO sao chép từ pháo Nga 2А46 và sản xuất. Pháo có bộ hút khói và vỏ cách nhiệt tháo lắp. Góc tầm của pháo là từ -6 đến +14 độ, độ dài nòng là 51 lần cỡ, tầm bắn thẳng của đạn xuyên giáp dưới cỡ là 2.500 m. Bộ ổn định pháo cũng là sao chép bộ ổn định 2E28 Syren của Nga, nó được điều khiển nhờ bàn điều khiển chuyên dụng và cho phép bắn khá chính xác trong hành tiến vào các mục tiêu tĩnh và động.
Các bộ dẫn động pháo điện-thủy lực được làm song trùng cho trưởng xe và pháo thủ. Ngoài việc làm chủ công nghệ sản xuất pháo, công nghiệp Trung Quốc cũng làm chủ được công nghệ sản xuất các loại đạn pháo 125 mm đi cùng, gồm: các loại đạn xuyên lõm, xuyên giáp dưới cỡ và phá-mảnh. Các phát bắn có vỏ lắp rời và vỏ cháy một phần (đáy đạn không cháy).
Trong kíp xe không có pháo thủ nạp đạn vì chức năng đó đã do máy nạp đạn tự động đảm nhiệm, nhờ đó tốc độ bắn liên tục đã tăng lên (6-8 phát/phút), không phụ thuộc vào độ mệt mỏi của pháo thủ nạp đạn, còn hệ thống đón và hất đáy vỏ đạn đã giảm được đáng kể mức độ khói trong khoang chiến đấu. Khi máy nạp đạn tự động bị hỏng hay hết cơ số đạn trong máy nạp đạn (22 phát bắn), kíp xe có thể nạp đạn bằng tay cho pháo, nhưng thao tác này rất bất tiện và tốc độ bắn lúc đó sẽ là không quá 1-2 phát/phút và điều đó cũng thuần túy là mang tính lý thuyết.
Vũ khí bổ trợ gồm súng máy đồng trục 7,62 mm và súng máy phòng không 12,7 mm Type 54 lắp trên móc trước cửa nắp của trưởng xe, nên chỉ có thể bắn về phía trước. Trên các xe tăng sản xuất sau này có lắp súng máy phòng không mới 12,7 mm W-85 của Trung Quốc. Tất cả các súng máy đều được sản xuất tại Pakistan theo giấy phép của Trung Quốc.
Hệ thống điều khiển hỏa lực chế tạo dựa trên hệ thống điều khiển hỏa lực ISFCS-212, có sử dụng các сông nghệ của phương Tây, cho phép điều khiển bắn pháo hiệu quả. Hệ thống bao gồm máy ngắm kết hợp của pháo thủ với thiết bị đo xa laser lắp liền (có thể đo xa trong phạm vi 500-5.000 m) và ổn định trường nhìn độc lập, máy ngắm kết hợp được ổn định của trưởng xe, bộ ổn định pháo 2 mặt phẳng, máy tính đường đạn số và các loại sensor. Thông tin từ sensor gió, các tham số khí quyển, nhiệt độ liều phòng, tốc độ góc của mục tiêu và cự ly đến mục tiêu được tự động đưa vào máy tính.
Trên các xe tăng sản xuất loạt 2 cung cấp cho Pakistan ở dạng tháo rời và lắp ráp tại chỗ thì sensor khí quyển có hình dáng mới kiểu ống cao. Bên phải máy ngắm chính của pháo thủ bố trí thêm khí tài quan sát có đầu quay.
Để tạo màn khói, xe sử dụng 2 cụm ống phóng lựu khói mỗi cụm 6 ống phòng, lắp hai bên tháp xe, cũng như hệ thống tạo khói nhiệt. Xe được trang bị hệ thống phòng hộ NBC tập thể với thiết bị quạt lọc, thiết bị dập lửa tác động nhanh và máy vô tuyến điện hiện đại Type 889В.
Động cơ là biến thể cải tiến của động cơ diesel VR36 (12150L7-BW) công suất 730 mã lực (công suất riêng là 17,8 mã lực/tấn). Nóc khoang động cơ-truyền lực được nâng lên một chút do các bộ phận của hệ thống làm mát và tản nhiệt được bố trí khác đi. Trên xe tăng lắp bộ truyền lực bán tự động do phương Tây sản xuất được ghép thành một khối với động cơ. Việc thay thế khối động cơ trong điều kiện dã chiến mất 40 phút. Tổng dung tích nhiên liệu dự trữ trong các thùng dầu bên trong và bên ngoài tăng lên đến 1.400 lít, dự trữ hành trình trên đường nhựa được thông báo là 700 km, nhưng đây là điều khó tin. Hai ống xả được dẫn ra sườn xe bên phải. Trên các xe tăng sản xuất các đời cuối, các ống xả được bẻ ra phía sau và chúi xuống dưới.
Type 96
Trên cơ sở xe tăng xuất khẩu Type 85-IIM, người ta đã phát triển tăng chủ lực Type 96 (ZTZ96) cho quân đội Trung Quốc. Ban đầu, biến thể này có tên Type 88C hay ZTZ88C. Do khó khăn tài chính, việc sản xuất loạt Type 88C cho quân đội Trung Quốc chỉ bắt đầu vào năm 1997, còn tên của nó bị đổi thành Type 96.
Về kết cấu và hình dáng, Type 96 gần như giống hệt Type 85-IIM series cuối được trang bị cho quân đội Pakistan và hầu như có cùng các tính năng chiến-kỹ thuật. Những khác biệt chính là động cơ mạnh hơn, hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến và trọng lượng chiến đấu nặng hơn 1,5 tấn.
Giống như Type 85-IIM, Type 96 cũng có giáp phức hợp, nhiều lớp ở hình chiếu phía trước và được trang bị pháo nòng trơn 125 mm với máy nạp đạn tự động.
Vũ khí bổ trợ gồm súng máy phòng không 12,7 mm W-85 và súng máy đồng trục 7,62 mm Type 86, cũng như 6 cụm ống phòng lựu khói gắn hai bên sườn tháp. Hệ thống điều khiển hỏa lực gồm bộ ổn định pháo 2 mặt phẳng, các máy ngắm kết hợp của trưởng xe và pháo thủ, máy tính đường đạn, bảng điều khiển, các sensor và thiết bị đo xa laser. Có sự khác biệt nhỏ là không có khí tài quan sát bổ sung cho pháo thủ.
Xe tăng được trang bị tất cả các hệ thống và thiết bị hiện đại như các khí tài nhìn đêm, máy vô tuyến điện sóng cực ngắn 889B (cự ly liên lạc 20-25 km), hệ thống phòng hộ tập thể chống vũ khí NBC, thiết bị dập cháy tác động nhanh.
Trên xe tăng lắp động cơ diesel tăng lực, làm mát bằng chất lỏng, công suất 1.000 mã lực, cho phép tăng được tốc độ tối đa. Động cơ này được cải tiến từ động cơ diesel dành cho xe tăng 12150L7-BW của Trung Quốc và như vậy là kéo dài thêm dòng động cơ V-54 của Liên Xô. Cùng với bộ truyền lực, nó tạo thành khối động lực duy nhất, cho phép thay thế nó nhanh trong điều kiện dã chiến. Bộ truyền lực kiểu cơ khí hành tình, tương tự bộ truyền lực của tăng Type 88. Bộ phận vận hành và cấu tạo của khoang động cơ-truyền lực tương tự như ở xe tăng Type 88-IIM.
Trên mẫu xe Type 96G có lắp các khối giáp tăng cường, gắn trên các khối giáp ở mặt trước tháp xe, tầm giáp đầu xe và ngoài mặt giỏ tháp.
Type 96 được sản xuất tại Nhà máy số 617. Theo giới lãnh đạo quân đội Trung Quốc, Type 96 cùng với xe tăng mới nhất Type 99 sẽ là nền tảng của các đơn vị xe tăng Trung Quốc trong 25 năm đầu thế kỷ XXI.
Type 96 được giới thiệu lần đầu tiên với công chúng tại cuộc duyệt binh ở Bắc Kinh vào ngày 1/10/1999.
Ban đầu, Type 96 được trang bị cho các binh đoàn tăng tinh nhuệ như Sư đoàn tăng số 6 của quân đoàn 38, đại quân khu Bắc Kinh và sư đoàn tăng số 8 của quân đoàn 26, đại quân khu Tế Nam. Từ năm 2005, khi đã sản xuất được hơn 1.500 chiếc Type 96, chúng đã bắt đầu thay thế các xe tăng cũ kỹ sản xuất trong thập niên 1960-1970 trong các binh đoàn tăng còn lại.
(Còn tiếp)
>> Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Những xe tăng đầu tiên (1)>> Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Các xe tăng hiện đại Type 98, Type 99 (3)