In bài này
Cuộc tập kích Sơn Tây - Chiến dịch Ivory Coast (2)
Thứ Bẩy, 30/08/2014 - 10:56 AM
Giai đoạn tấn công bắt đầu!
>> Cuộc tập kích Sơn Tây - Chiến dịch Ivory Coast (1)


Tấn công

Jay Strayer, cựu phi công thứ hai trực thăng có mật danh Apple 02, nhớ lại: “Căng thẳng tăng lên khi chúng tôi tiếp cận điểm xuất phát mà từ đó thực hiện cú tiếp cận cuối cùng đến trại giam. Cho đến lúc đó, tôi đã lái trực thăng phần lớn quãng đường. Tại chỗ đó, Jack Allison thay tôi nhận lấy việc lái máy bay ở giai đoạn cuối của chiến dịch. Tôi thì nhận trách nhiệm hoa tiêu. Đúng như khi diễn tập, chiếc МС-130 đi đầu dẫn các máy bay đến dãy núi cuối cùng ở độ cao 150 m so với mặt đất. Ở điểm xuất phát, chúng cùng với Apple 04 và Apple 05 lấy độ cao đến 450 m và bay thẳng về hướng trại giam. Từ khoang chiếc МС-130 làm nhiệm vụ dẫn đường phát đi một bức điện duy nhất xác định hướng bay đến trại giam, và sau đó làn sóng chìm vào im lặng vô tuyến.

Lúc này, chúng tôi còn 4 chiếc: 3 chiếc với mật danh Apple 01, 02, 03 được chiếc HH-3 dẫn đầu. Tôi đặc biệt quan tâm giai đoạn này của chiến dịch, mà trong đó mỗi người chúng tôi phải thực hiện một nhiệm vụ được phân công. Khi đến IP (điểm xuất phát), chiếc MC-130 bốc lên độ cao 450 m thả pháo sáng trên trại giam Sơn Tây. Các trực thăng Apple 04 và Apple 05 làm nhiệm vụ dự phòng cho nó và phải thả pháo sáng nếu các pháo sáng từ chiếc MC-130 không đủ hiệu quả. Nhưng điều đó đã không cần thiết. Vì vậy, các trực thăng lượn sang trái để tìm bãi hạ cánh chọn trước trên một hòn đảo giữa một cái hồ lớn. Các phi công trực thăng phải đợi ở đó cho đến khi lực lượng đặc nhiệm tiến đến trại tù binh Sơn Tây để giải thoát và di tản các tù binh Mỹ. Chiếc МС-130 lượn sang phải và thả các quả bom cháy và napalm để tạo ra đống lửa làm mốc định hướng cho các cường kích А-1. Sau đó, chiếc МС-130 bay đến khu vực chờ trên lãnh thổ Bắc Lào.

Ngay sau khi pháo sáng chiếu sáng nhà tù, chiếc trực thăng HH-53 với mật danh Apple 03, dưới sự chỉ huy của Marty Donohue, bay qua trên nóc nhà tù, bắn xuống bằng các súng máy Gatling vào các chòi canh vì theo kế hoạch thì phải vô hiệu hóa chúng để triệt tiêu nguồn gốc đề kháng tiềm tàng”.

Bob Senko trong tổ lái chiếc С-130 nhớ lại: “Tôi còn nhớ rõ rằng, khi các trực thăng bay vào mục tiêu, trước hết chúng đã phải loại khỏi vòng chiến các chòi canh bằng hỏa lực của các khẩu súng máy 7,62 mm của mình. Chúng tôi đã phải yểm trợ cho chúng thực hiện nhiệm vụ này. Điều đó thật đáng ngạc nhiên, nhưng đã không hề có phản ứng đáp trả của lực lượng bảo vệ trên các chòi canh”.




Hạ cánh khẩn cấp

Tổ lái chiếc HH-3 do Marty Donohue chỉ huy vào hạ cánh để đổ quân. Tổ đột kích của Dick Meadows lập tức bắn xuống bãi đáp để ngăn chặn đối phương chống trả. Donohue với tổ lái gồm Herb Kalen, Herb Zender và Leroy Wright đáp chiếc trực thăng chở Meadows cùng tổ đột kích 13 người đổ bộ xuống một khoảnh đất khá nhỏ bên trong các bức tường nhà tù. Cho đến lúc đó, mọi thứ diễn ra đúng theo kế hoạch và chính xác về thời gian. Khi hạ cánh, các lá cánh quay đã quẹt phải mấy cái cây cao bao quanh bãi đáp. Do hạ cánh gắt, một bình cứu hỏa đã văng ra làm vỡ mắt cá chân của trung sĩ LeRoy Wright, nhân viên cơ giới của trực thăng.

Cần thấy rằng, kế hoạch chiến dịch đã trù tính khả năng bị mất chiếc HH-3. Khi rút lui, lực lượng đổ bộ đã phải giật nổ phá hủy nó.

Các lính đổ bộ của Dick Meadows không bị tổn hại gì và bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ. Họ phải lùng sục các tù binh bên trong các tòa nhà, cũng như ngăn chặn khả năng can thiệp của đối phương.

Bộ đội Bắc Việt chạy ra khỏi các tòa nhà và nổ súng vào lính Mỹ. Không còn yếu tố bất ngờ, đặc nhiệm Mỹ đã phải giành quyền chủ động. Nhiệm vụ chủ yếu của Meadows là xông vào tòa nhà và tìm tù binh ở đó. Để các binh sĩ tập kích và tù binh có thể thoát khỏi trại giam, người ta đã dự định dùng thiết bị nổ phá thủng một lỗ ở góc tây nam bức tường nhà tù. Tại đây, ngay sát bức tường, ở chỗ lỗ thủng phải triển khai sở chỉ huy của Trung tá “Bud” Sydnor.

Để phá nổ tường rào, đã sử dụng 1,5 kg chất nổ dẻo С-4. Xác chiếc trực thăng cũng bị phá hủy bằng một quả bộc phá tự tạo đặc biệt. 1,5 kg С-4 trộn chất nhiệt nhôm được nhồ vào đoạn vòi cứu hỏa dài 75 cm, đường kính 10 cm. Để phá hủy chắc chắn chiếc trực thăng bỏ lại, bộc phá được nhét vào hầm chứa dưới sàn, giữa các thùng nhiên liệu phía trước và phía sau.


Sai lầm của Apple 01

Apple 01 với Đại tá Symons và 21 lính đổ bộ đã hạ cánh nhầm xuống một bãi đáp có hàng rào bao quanh mà trong kế hoạch không có. Nó nằm cách mục tiêu khoảng 200 m về phía nam. Đấu súng lập tức nổ ra. Trận đánh này làm họ mất khoảng 5 phút, sau đó Simons và binh lính lại leo lên trực thăng và bay đến nơi cần đến.

Không còn mắc sai lầm, các phi công của chiếc Apple 01 đã đổ đội yểm trợ của Đại tá Simons ở khu vực phía bắc của nhà tù.
Trong khi đó John V. Allison lái chiếc Apple 02 đưa Trung tá Elliott Sydnor và binh sĩ của ông tiếp đất tại địa điểm đã định và khi hiểu rằng không có chiếc Apple 01 cùng với họ, họ liền lập tức thực hiện kế hoạch 2. Các đội đổ bộ trong quá trình luyện tập đã tập thực hiện không chỉ các nhiệm vụ của mình mà của cả các lực lượng bạn, phòng khi xảy ra các tình huống bất trắc.

Mặc dù Warner Britton đã mắc sai lầm khi hạ cánh, còn các trực thăng khác cũng làm theo ông ta, nhưng chiếc Apple 03 đã khắc phục được sai lầm này. Tại thời điểm G+1 phút, Britton đã đổ toán đặc nhiệm có mật danh Greenleaf. Lúc đó, xuất hiện một bộ đội Bắc Việt, nhưng lập tức anh ta bị Simons bắn chết bằng khẩu súng ngắn ổ quay cỡ .357.

Toán chỉ huy lọt vào tầm hỏa lực súng tự động của đối phương và do đó, các phân đội đột kích đã xông lên phía trước. Trên cơ sở thông tin tình báo có từ trước, toán Greenleaf đã biết số lượng binh sĩ đối phương bên trong tòa nhà. Họ cũng hiểu rằng, do sai lầm lúc đầu khi tấn công nhầm mục tiêu mà yếu tố bất ngờ đã mất. Sau khi loạt vào tòa nhà, biệt kích Mỹ quét sạch cánh trái sau khi tiêu diệt gần 10 bộ đội Việt Nam bằng hỏa lực súng bộ binh và lựu đạn.

Tại thời điểm G+2 phút, các phân đội tiến vào tòa nhà và giao chiến. Lúc G+3 phút, tốp đầu tiên đã bảo đảm được an toàn cho bãi đáp và bắn canh chừng về hướng nam và hướng tây.

Từ G+2 phút đến G+5 phút, toán chỉ huy tiếp tục đột phá qua các căn phòng ở cánh nam. Các phân đội báo cáo rằng, họ đã đụng độ với đối phương mạnh hơn dự tính. Ngoài ra, đối phương còn bắn từ tòa nhà hai tầng nằm ở giữa khu trại giam. Một biệt kích Mỹ trong toán đầu tiên đã dùng súng phóng lựu М79 chế áp được hỏa điểm này của đối phương.

Tốp đầu tiên cũng xác nhận chế áp được hảo điểm ở tòa nhà hai tầng, nhưng khi tiếp tục  tiến lên đã lọt vào tầm hỏa lực ở rìa phía tây của trại giam. Tại đây, khẩu súng máy М60 của họ vào cuộc và buộc đối phương phải im lặng. Tốp thứ hai tiến xuôi theo con đường về hướng bắc, cách ranh giới khu trại khoảng 150 m, càn quét và tiêu diệt lực lượng đối phương ở cả hai cánh. Lúc G+4 phút, Simons hạ lệnh cho chỉ huy tốp này tiến đến bãi đổ bộ và bảo đảm an toàn cho nó từ hướng đông nam.

Sau này, Simons nói rằng, ông ta không đủ quân để thực hiện nhiệm vụ chính tấn công trại tù binh. Lúc G+5 phút, toán chỉ huy cuối cùng đã đột phá được ở hướng đông, sau khi ném những quả lựu đạn sát thương vào hai căn phòng kế bên và buộc các khẩu súng tự động của 4 bộ đội Bắc Việt im tiếng.

Khoảng G+6 phút, Simons hạ lệnh cho tất cả các tốp của toán chỉ huy và yểm trợ đột phá đến địa điểm bốc rút. Trong vòng 60 giây, ông ta đã nhận được báo cáo đầy đủ về các binh lính thuộc quyền tại bãi đáp. Ông ta cũng được báo cáo là bãi đáp đã được đánh dấu bằng các ngọn lửa. Tốp đầu tiên canh chừng bãi đáp từ hướng tây, nơi đối phương tiếp tục đánh trả. Tốp thứ hai bảo vệ bãi đáp từ hướng nam. Sau khi chắc chắn bãi đáp an toàn, lúc G+9 phút, Simons gọi trực thăng của mình. Sau đó, đội của Simons được bốc rút đi.


Hành động của các toán còn lại

Đến lúc đó, Meadows, chỉ huy toán Blueboy, đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Sydnor với toán Redwine cũng hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ của mình. Các binh sĩ của Sydnor đã phá nổ một câu cầu mà một đoàn quân đối phương đang cố tiến qua để chi viện cho những người bảo vệ các mục tiêu bị tấn công. Khi Simons và binh lính của ông ta cuối cùng vẫn được đổ xuống địa điểm đã định, ông ta đã gọi các cường kích А-1 và chúng đã bắt đầu tiêu diệt các mục tiêu trong toàn trại tù binh, kể cả một cây cầu đi bộ nhỏ giữa địa điểm sống của các cố vấn và trại tù binh, cũng như các mục tiêu ở trại bên cạnh.

Do biệt kích Mỹ đổ bộ xuống đã không thể chiếm lĩnh kịp thời một cây cầu ở phía bắc khu vực, các phi công С-130 đã được giao nhiệm vụ ném bom vào cây cầu này. Do bay ở độ cao nhỏ nên không thể sử dụng bom, các máy bay đành phải bắn vào cây cầu.

Các máy bay vào tấn công mục tiêu ở độ cao nhỏ, tiến hành bắn phá cây cầu và cái mà chúng cho là một nhà máy hóa chất trong khi chấp nhận rủi ro bị hư hại do đạn cho chính chúng bắn xuống.

Mặc dù đã không thể phá hủy được cây cầu, nhưng mọi di chuyển qua cây cầu này đã bị ngừng lại.

Các máy bay đã phải bay tác chiến ở độ cao nhỏ do Bắc Việt bắt đầu sử dụng tên lửa phòng không. Các máy bay nhìn rất rõ trong ánh sáng trăng. Chúng bay quần trong khu vực trại ở độ cao 100-200 m trên mực nước biển, ở phía bắc khu vực, do nguy cơ bị tên lửa đất đối không bắn rơi, các máy bay đã phải hạ xuống độ cao sát mặt nước sông Hồng. Khi biệt kích Mỹ cuối cùng đã tiến đến được cây cầu, các máy bay đã thả số bom còn lại xuống sông Hồng và bay về căn cứ.

Trong khi đó, các tổ lái chiếc Apple 04 và Apple 05 quan sát toàn bộ bức tranh khai mở trên bầu trời đêm. Jack Allison nhớ lại: “Ở vùng chờ, trong khi chúng tôi đợi lực lượng đổ bộ với các tù binh để di tản họ, chúng tôi đã quan sát trên trời một màn pháo hoa ấn tượng. Đã có từ 14 đến 16 quả tên lửa phòng không phóng vào chiếc F-105 Wild Weasel. Hơn nữa, các tên lửa được phóng ở góc thấp đến nỗi một trong các trực thăng đang bay đã phải cơ động tránh đạn. Chúng tôi đã quan sát một quả tên lửa phun ra lượng nhiên liệu còn lại và nổ tung sau chiếc cường kích Firebird 3. Quả cầu lửa bùng lên che kín chiếc máy bay và có cảm tưởng chúng tôi đã mất nó. Nhưng khi lửa tắt đi, tổ lái đã tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Một quả tên lửa khác đã nổ cạnh chiếc Firebird 5,làm hỏng hệ thống điều khiển bay và hệ thống nhiên liệu”.

Các hệ thống tên lửa phòng không SA-2 của Việt Nam đã tấn công tốp F-105. Một quả tên lửa đã bắn trúng và làm bị thương nặng một chiếc F-105. Thiếu tá Kilgus và Đại úy Lowry đã nhảy dù và tiếp đất tại một vùng núi. Do hết nhiên liệu, trên không phận Lào đã tiến hành tiếp dầu trên  không từ máy bay tiếp dầu KC-135.

Việc chiếc máy bay rơi đã được báo cáo về sở chỉ huy. Tọa độ của các phi công bị bắn rơi được báo cáo lên các trực thăng Apple 04 và Apple 05, chúng đã di tản trót lọt các phi công này.

Đối phương phòng ngự đã bị tiêu diệt. Các biệt kích đổ bộ lục soát toàn trại, nhưng không thể tìm thấy tù binh Mỹ nào. Sau đó, qua vô tuyến điện, Chuẩn tướng Manor đã nhận được bức điện mã: “Negative items”.

Manor đã không thể tin vào điều này và nghĩ rằng, đã có sai sót khi truyền đạt thông tin. Cùng với Simons, ông đã tính toán xác suất thất bại và hiểu rằng, điều đó có thể xảy ra, nhưng xác suất thất bại là không đáng kể. Tất cả đều theo đúng kế hoạch. Phân đội đổ bộ đã hoàn thành nhiệm vụ trên mặt đất trong vòng 29 phút thay vì 30 như dự kiến. Sau khi tiêu diệt được gần 50 người của đối phương, họ đã có 2 người bị thương nhẹ: trung sĩ Wright bị vỡ mắt cá chân, còn trung sĩ Murry bị vết thương do đạn bắn vào phía trong đùi.

Các trực thăng đã được gọi đến và phân đội lên trực thăng. Sau khi điểm danh tất cả, các phi công đã khởi động động cơ, bay về hướng ngược lại. Sau đó, tất cả trót lọt trở về căn cứ không quân. Các biệt kích Mỹ buồn bãi vì đã không hoàn thành nhiệm vụ và nhiều người đòi đêm sau quay lại để cứu các tù binh. Tuy vậy, vì nhiều lý do, điều đó đã không thể làm được.


Theo Định luật Murphy

Tất nhiên là người ta đã lập một ủy ban để xác định các nguyên nhân thất bại. Ủy ban đã xác định rằng, trong quá trình chuẩn bị chiến dịch mật danh IVORY COAST đã thực hiện gần 170 bài tập với binh sĩ các toán đổ bộ và các tổ lái máy bay, trực thăng. Bởi vậy, các thành viên tham gia chiến dịch đã sẵn sàng với mọi diễn biến. Việc đi sâu nghiên cứu các hành động đã thực hiện và báo cáo do chỉ huy trưởng chiến dịch Chuẩn tướng LeRoy Manor viết đã không cho phép ủy ban đưa ra cáo buộc nào đối với các lính tình nguyện tham gia chiến dịch. Nhưng vậy thì cái gì là nguyên nhân gây ra sai lầm khi đổ bộ một toán biệt kích?

Theo tin tức tình báo, tòa nhà của trường trung học cũ nằm cách nhà tù Sơn Tây chưa đến 500 m cũng giống như các công trình khác nằm ngay sát nó đã bị biến thành các doanh trại quân đội. Trong báo cáo “Vai trò của Không quân trong tấn công trại tù binh Sơn Tây” do Alfred Montrem (phi công thứ hai của Britton) viết cho Học viện Không quân Mỹ vào năm 1978 có nói rằng, tòa nhà trường học và các công trình khác bị cải tạo lại thành các doanh trại trông giống với trại tù binh.

Mặc dù trong báo cáo của mình, Chuẩn tướng Manor không nhắc đến ngôi trường, ông chỉ ra rằng, cách công trình 400 m về phía nam có một khu doanh trại. Công trình này ban đầu được nhận dạng là công trình quân sự, chứ không phải là dân sự. Theo thông tin trinh sát đường không và tình báo quân sự, tại cơ sở này có từ 60 đến 90 bộ đội Bắc Việt, cũng như các huấn luyện viên và cố vấn Trung Quốc. Đơn vị này phụ trách bảo vệ và có khả năng trong thời gian ngắn nhất đi bằng xe ô tô hay chạy bộ có mặt tại trại tù binh. Bởi vậy, công trình này đã được coi là thứ yếu và theo kế hoạch ban đầu, nó là mục tiêu của các cường kích А-1. Tại sao toán Simons lại đổ bộ xuống khu doanh trại thay vì trại tù binh?

Một là, theo Montrem, Britton đã mắc sai lầm do đã không tham gia các chuyến bay tập tại căn cứ không quân Eglin. Số giờ bay huấn luyện của anh ta chỉ là 30 giờ, trong khi đó các phi công còn lại có 1.000 giờ bay tập.

Hai là, như giải thích trong báo cáo chính thức về chiến dịch của Chuẩn tướng Manor, tất cả các tổ lái trực thăng tham gia tấn công đều đã bị lệch hướng bay do gió.

Nếu như giả thiết, điều đó là sự thật thì khi điều chỉnh hướng bay, nó sẽ dẫn thẳng đến các doanh trại chứ không phải đến nhà tù. Tốp trực thăng được dẫn đến khu vực chiến dịch bởi chiếc MC-130 Combat Talon mật danh Cherry One bay ở độ cao 100-200 m. Sau đó, các trực thăng tự bay đến mục tiêu khi hạ xuồng độ cao cực nhỏ và vì thế mà định hướng kém bằng mắt. Do tác động của gió, chúng bị dạt hướng và trong đêm, khi có một công trình giống như vậy thì đã đổ quân xuống.

Như Trung tá Britton viết trong cuốn sách “Ở trong mắt bão” (At the Hurricane’s Eye): “Khi bay đến mục tiêu, tôi đã không chú ý đến các điểm kiểm tra địa hình cuối cùng. Tôi đã quan sát con đường hay sông Cồn phải ở ngay cổng vào nhà tù. Khi tôi nhìn thấy đường nét của các tòa nhà, lập tức tôi bay về phí đó”.

Nhưng các tù nhân đã ở đâu chứ? Sau này mới biết rằng, ngày 14/7 do nước sông dâng lên và nguy cơ lụt các cánh đồng các tù binh đã được chuyển đến một nơi được đặt biệt danh là “Trại Niềm tin”.

Cuộc sống một lần nữa chứng minh Định luật Murphy nổi tiếng: “Nếu một việc có thể diễn tiến xấu, nó sẽ diễn tiến đúng như thế” (Anything that can go wrong, will go wrong).

>> Cuộc tập kích Sơn Tây - Chiến dịch Ivory Coast (1)
Long Xuyên