In bài này
Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Những xe tăng đầu tiên (1)
Thứ Tư, 15/01/2014 - 6:41 PM
Trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã vượt qua chặng đường từ người mua sắm đến nhà sản xuất và xuất khẩu tăng-giáp.
>> Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Các xe tăng hiện đại Type 88, Type 96 (2)
>> Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Các xe tăng hiện đại Type 98, Type 99 (3)

Xe chiến đấu thiết giáp xuất hiện trên đất Trung Quốc vào nửa đầu thế kỷ XX. Trong chuỗi nội chiến và can thiệp liên tiếp nhau, xe tăng đã đóng vai trò không hề trung tâm, tuy nhiên, loại vũ khí này đã khá được chú ý ở Trung Quốc. Trong thập kỷ 1950, lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định chuyển từ mua sắm binh khí tăng-thiết giáp sang sản xuất chúng.

Các xe tăng đã xuất hiện ở Trung Quốc trong những năm 1920, khi quân phiệt Mãn Châu Lý Trương Tác Lâm mua ở Pháp 36 xe tăng hạng nhẹ FT-17. Mười xe tăng đầu tiên được chở đến bằng một con tàu Anh dưới vỏ bọc máy kéo nông nghiệp. Bốn chiếc nữa đến Trung Quốc vào tháng 11/1925 cập cảng. Chúng đã được sử dụng trong giao chiến giữa quân đội Mãn Châu Lý và quân đội của quân phiệt Ngô Bội Phu.

Trong khi đó, chính phủ Nam Kinh của Quốc dân đảng đã quyết định mua xe tăng cho quân đội của mình. Năm 1929, họ đã đặt mua 24 xe tăng con Vickers Carden Loyd và vào tháng 5/1929, 12 chiếc đầu tiên đã đến Trung Quốc. Chúng đã được đưa đến Tô Châu và chiến đấu tại mặt trận Lunghai. Năm 1938, việc mua sắm tăng-thiết giáp trở nên quy mô hơn.

Thông qua phái bộ quân sự Đức, đã mua 10 xe tăng hạng nhẹ Pz. I Ausf. A và 30 xe ô tô bọc thép. Đã mua ở Italia 20 xe tăng con CV 33, mua của hãng Anh Vickers 16 xe tăng Vickers Mk. E, sau đó mua thêm 4 chiếc nữa trang bị vô tuyến điện là Vickers Mk. F. Cùng với Vickers Mk. E, đến Trung Quốc còn có 33 xe tăng lội nước Vickers Carden Loyd Model 1931.

Những thành tựu trong lĩnh vực này đã cho phép Trung Quốc ngay từ những năm 1980 không chỉ bảo đảm được nhu cầu của mình còn xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.

Sự giúp đỡ của nước ngoài

Ngày 1/3/1938, hiệp định thương mại giữa Liên Xô và chính phủ Tưởng Giới Thạch được ký kết. Chính phủ Liên Xô cấp cho Trung Quốc khoản tín dụng để mua từ Liên Xô vật tư quân sự và các vật tư khác, trong đó có cả 87 xe tăng Т-26 kiểu 1933. Vào cuối thập kỷ 1930, trong quá trình các trận đánh gay go với quân Nhật, toàn bộ số binh khí kỹ thuật này cơ bản bị tổn thất.

Lực lượng tăng-thiết giáp Trung Quốc chỉ bắt đầu hồi sinh vào năm 1943, khi Mỹ quyết định thành lập Cụm xe tăng lâm thời (Provisional Tank Group) từ tàn quân lực lượng xe tăng Trung Quốc ở Ấn Độ. Ban đầu, lực lượng này gồm cả các kíp xe tăng Mỹ, nhưng dần dần, họ bị thay thế bằng lính Trung Quốc. Người Mỹ phụ trách hoàn toàn việc hỗ trợ kỹ thuật cho đơn vị mới thành lập. Cụm này được trang bị các xe tăng do Mỹ sản xuất lấy từ kho dự trữ của Anh ở Ấn Độ.

Trong trang bị của Cụm xe tăng lâm thời chủ yếu là các xe tăng hạng trung M4A4 Sherman và các xe tăng hạng nhẹ M3A3 Stuart, cũng như một số lượng nhỏ xe bọc thép chở quân Anh Bren Carrier và xe bọc thép chở quân bán xích Mỹ. Cụm này đã tham chiến tích cực chống quân Nhật ở Miến Điện vào năm 1944. Sau đó, Cụm xe tăng lâm thời đã trở thành nòng cốt của Tưởng Giới Thạch chiến đấu với quân cộng sản của Mao Trạch Đông trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc năm 1946-1949.

Cũng cần nói thêm là quân giải phóng nhân dân Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đã nhận được từ Liên Xô toàn bộ xe tăng-thiết giáp của Nhật mà Hồng Quân Liên Xô chiếm được từ tay đội quân Quan Đông Nhật Bản vào năm 1945. Sau thắng lợi của những người cộng sản trong cuộc nội chiến và thành lập CHND Trung Hoa, Liên Xô bắt đầu cunng cấp các xe tăng Т-34-85 và IS-2 do Liên Xô sản xuất. Trung Quốc bắt tay vào tự lực sản xuất tăng-giáp vào nửa cuối thập kỷ 1950.

Đứa con đầu của ngành chế tạo xe tăng Trung Quốc

Xe tăng Trung Quốc đầu tiên là xe tăng hạng trung Турe 59 (WZ120). Nó được sản xuất từ năm 1957 tại nhà máy quốc doanh số 617 ở thành phố Bao Đầu, tỉnh Nội Mông theo tài liệu kỹ thuật của Liên Xô. Sau đó, việc sản xuất còn được triển khai ở 2 nhà máy ở Nội Mông và Thượng Hải. Sản lượng xe tăng này vào đầu thập kỷ 1970 là 500-700 xe/năm, vào năm 1979 là 1.000, năm 1980 - 500, năm 1981 - 600, năm 1982 -1.200, năm 1983 - 1.500-1.700 xe. Турe 59 có thiết kế giống tăng Т-54А của Liên Xô, được sản xuất loạt từ năm 1957-1987 (sau năm 1980, sản xuất chủ yếu để xuất khẩu). Trong quãng thời gian này đã sản xuất gần 10.000 xe.

Xe tăng có cấu tạo truyền thống với khoang lái ở phía trước, khoang chiến đấu ở giữa và khoang động cơ-truyền động ở phía sau. Lái xe ngồi phía trước, bên trái, pháo thủ và trưởng xe ngồi trong tháp, bên trái pháo, còn pháo thủ nạp đạn ngồi bên phải. Thân xe kiểu hàn, tháp bán cầu kiểu đúc với nóc tháp hàn.

Trong tháp lắp 1 khẩu pháo 59 nòng rãnh 100 mm (pháo Liên Xô D-10TG sản xuất theo giấy phép), được ổn định theo mặt phẳng đứng. Pháo có cơ cấu hút khói để thổi lòng nòng sau phát bắn. Các góc dẫn theo phương đứng là từ -40 đến +17 độ. Để bắn pháo, kíp xe sử dụng kính ngắm thiên văn khớp nối với độ khếch đại thay đổi 3,5 và 7 lần, vốn là bản sao chép của kính ngắm Liên Xô TSh-2А-22. Cơ số đạn gồm 34 phát bắn đơn khối, 20 trong số đó nằm trong giá đạn bên phải ghế lái xe, 14 trong khoang chiến đấu. Toàn bộ đạn là loại sao chép các loại đạn đơn khối 100 mm của Liên Xô. Bên phải pháo lắp 1 súng máy 59T 7,62 mm (súng máy Liên Xô SGMT sản xuất theo giấy phép), còn 1 súng máy cùng loại được gắn cứng ở tấm giáp đầu xe. Trên nóc tháp, trên giá ở cửa nắp của pháo thủ nạp đạn gắn 1 súng máy phòng không 54 cỡ 12,7 mm (bản sao của súng máy Liên Xô DShKM).

Trong khoang động cơ-truyền động của xe tăng bố trí động cơ diesel 12150L công suất 520 mã lực (sao chép động cơ Liên Xô V-54). Bộ truyền động cơ khí cũng có thiết kế hoàn toàn giống như ở xe tăng Т-54А. Bộ phận vận hành mỗi bên gồm 5 bánh lăn và bánh chủ động và bánh dẫn hướng. Hệ treo xoắn độc lập. Xích xe Турe 59 không du nhập từ xe Т-54А mà từ Т-55 - xích xe nhẹ hơn và có tính công nghệ hơn trong sản xuất.

Biến thể sản xuất loạt đầu tiên được sản xuất từ năm 1957-1961. Trên biển thể thay thế nó là Туре 59-I (WZ120A) có lắp thiết bị ổn định vũ khí hai mặt phẳng, các khí tài nhìn đêm chủ động. Trong cơ số đạn của pháo 69-II (tương tự pháo D-10T2S) có bổ sung đạn xuyên giáp dưới cỡ ổn định bằng cánh đuôi АР100-2 với lõi kéo dài do hãng NORINCO (North Industries Corporation) phát triển. Vào đầu thập niên 1980, xe bắt đầu được lắp các tấm chắn sườn xe bằng vải cao su, các ống phóng lựu khói, các máy đo xa laser Туре 82 và Туре 83-II của hãng CELEC (Trung Quốc) và một máy tính đường đạn tương tự thô sơ. Tất cả hững dữ liệu cần thiết được nạp vào máy tính bằng tay nhờ bàn phím điều khiển. Máy đo xa laser được lắp trên mặt nạ pháo, bên trên nòng pháo. Tất cả các xe tăng Type 59 có trong trang bị quân đội Trung Quốc đã được nâng cấp lên chuẩn Type 59-I.

Trên các xe tăng Турe 59-II (WZ120B), pháo đã được thay bằng pháo nòng rãnh 105 mm Type 81 với vỏ cách nhiệt. Pháo này là bản sao của pháo tăng Mỹ М68 do Israel sản xuất. Pháo này có ưu thế đáng kể về độ chính xác và uy lực phát bắn so với pháo 100 mm. Khe hở của tháp xe và bố trí thiết bị bên trong, cũng như các đặc tính kích thước-trọng lượng giống nhau của pháo đã cho phép lắp nó cho xe tăng mà không phải cải tạo nhiều. Thiết bị ổn định pháo cũng vẫn như ở Type 59-I. Hãng NORINСO đã chế tạo cho pháo mới các loại đạn xuyên giáp có cánh ổn định với khả năng xuyên mạnh hơn. Đạn xuyên giáp 105 mm với lõi bằng hợp kim uranium có khả năng xuyên giáp dày 150 mm ở tầm bắn 2.500 m với góc bắn 60 độ.

Trong cơ số đạn có các loại đạn nổ phá và xuyên lõm sản xuất theo công nghệ Israel. Cơ số đạn pháo vẫn gồm 44 viên như ở Type 59-I. Năm 1984, pháo được trang bị vỏ cách nhiệt bằng hợp kim nhôm. Xe tăng cũng được trang bị các tấm chắn 5 ngăn bằng vải cao su, máy đo xa laser ở trên tháp con chỉ huy và các khí tài nhìn đêm không chiếu xạ do công ty Anh MEL cung cấp cho Trung Quốc. Biến thể này được đặt tên là Турe 59-IIА.

Hiện đại hóa sâu

Để duy trì khả năng chiến đấu của tăng Турe 59 ở mức chấp nhận được, Trung Quốc đã tiến hành hiện đại hóa sâu xe tăng Турe 59-II nhằm nâng cao khả năng sống còn bằng cách trang bị giáp phản ứng nổ và tăng hiệu quả chiến đấu bằng cách lắp hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến và các bộ phận kèm theo khác. Xét về tính năng chiến đấu, tăng cải tiến có tên Турe 59-IID (WZ120C) tương đương với xe tăng Т-55АМВ của Nga. Giáp phản ứng nổ (có tên FY) của Type-59IID là các hộp chứa thuốc nổ dẻo, được lắp bên trên tấm giáp đầu xe (13 hộp) và ở hai bên tháp xe (mỗi bên 15 hộp, 3 trong số đó có hình tam giác).

Xe được lắp pháo mới 83А 105 mm. Hệ thống điều khiển hỏa lực có các kính ngắm thụ động kết hợp (ngày/đêm) mới của trưởng xe và pháo thủ, máy ngắm bổ trợ kiểu ống lồng, máy đo xa laser lắp liền, thiết bị ổn định pháo hai mặt phẳng cải tiến, máy tính đường đạn số. Thay cho máy ngắm tiềm vọng của pháo thủ, còn có thể lắp khí tài ảnh nhiệt. Hai bên tháp bố trí mỗi bên 4 ống phóng lựu khói, ở phần sau của tháp có giỏ chứa đồ cho kíp xe. Xe tăng được trang bị thiết bị tạo khói nhiệt. Trong khoang động cơ/truyền động lắp động cơ diesel 12 xy lanh 12150L7 được tăng công suất lên đến 580 mã lực (bằng cách tăng cấp nhiên liệu và mức độ nén). Xe có tốc độ 50 km/h trên đường nhựa, đến 25 km/h ở địa hình không đường sá, dự trữ hành trình 440 km, và khi có các thùng dầu bổ sung là đến 600 km. Xích xe dùng khớp cao su-kim loại, các trục treo xoắn được gia cường. Xe được lắp máy vô tuyến điện mới А-220А với tầm hoạt động 16 km.

Các xe tăng Type 59-IID1 (WZ120C1) được trang bị pháo 79 105 mm với vỏ cách nhiệt bằng nhôm-composite. Pháo có thể bắn tên lửa chống tăng có điều khiển tầm bắn tối đa 5,2 km và khả năng xuyên giáp đến 700 mm. Tên lửa chống tăng được bắn qua nòng pháo giống như trên các xe tăng Nga. Ngoài các mục tiêu mặt đất thông thường, tên lửa còn có thể tiêu diệt trực thăng bay thấp. Có thể tên lửa chống tăng có điều khiển bắn từ pháo tăng đang được Trung Quốc phát triển cùng với Israel. Người ta đã tiến hành thử nghiệm trình diễn các loại tên lửa chống tăng có điều khiển đó và ở tầm 4,8 km đã tiêu diệt một bia tự hành điều khiển từ xa.

Cũng không loại trừ việc Trung Quốc mua tên lửa bắn từ pháo tăng 9М117 Bastion do Nga sản xuất.

Vào cuối thập kỷ 1960, hãng NORINCO đã phát triển tăng chủ lực Турe 69 (WZ121). Đây là biến thể hiện đại hóa của Туре 59. Người ta đã trù tính chỉ sử dụng các công nghệ và linh kiện của Trung Quốc. Vào đầu những năm 1970, nhà máy số 617 ở Baotou đã bắt đầu sản xuất loạt xe tăng mới. Tuy nhiên, việc hoàn thiện xe này diễn ra chậm chạp và việc sản xuất cho đến những năm 1980 được tiến hành ở số lượng hạn chế. Lần đầu tiên, Type 69 được giới thiệu tại cuộc duyệt binh ở Thượng Hải vào tháng 9/1982.

Biến thể xuất khẩu

Tăng Турe 69 được sản xuất chủ yếu để xuất khẩu. Quân đội Trung Quốc chỉ đưa vào trang bị một số ít tăng này. Khách hàng nước ngoài đầu tiên mya Type 69 là Iraq khi họ mua mấy trăm xe tăng này kể từ năm 1983. Trong 3 năm (1984-1987), Trung Quốc cung cấp cho các nước Vùng Vịnh tổng cộng 1.800-2.500 xe tăng này, phần lớn là cho Iraq. Đầu năm 1987, Thái Lan đã đặt mua của Trung Quốc một lượng lớn vũ khí trang bị, trong đó có 50 tăng Турe 69. Những xe tăng đầu tiên đã được chuyển giao cho quân đội Thái Lan vào năm 1988 và được đặt tên là Type 30 МВТ. Sri Lanka cũng mua một số xe tăng này. Năm 1998, Bangladeh nhận được 232 Type 69.
 
Pakistan trong những năm 1980 cũng đã mua 250 chiếc Турe 69, còn vào năm 1993 đã bắt đầu sản xuất theo giấy phép tăng này tại nhà máy của hãng Heavy Industries Taxila (một phần các linh kiện do Trung Quốc cung cấp). Các xe tăng do Pakista sản xuất được đặt tên Type 69-IIMP.

Cấu trúc thân và tháp xe, động cơ và hệ thống truyền động, nhiều bộ phận và tổng thành khác, ví dụ như súng máy, cửa cửa nắp của các thành viên kíp xe... so với Турe 59 hầu như không có thay đổi gì. Khác biệt chủ yếu là những cải tiến ở hệ thống điều khiển hỏa lực và pháo. Xe tăng được trang bị pháo nòng trơn mới 69 100 mm do Trung Quốc phát triển trên cơ sở pháo nòng rãnh 59 và nghiên cứu pháo Liên Xô U-5TS 115 mm của tăng Liên Xô Т-62 mà Trung Quốc chiếm giữ được trong cuộc xung đột ở đảo Damansky vào năm 1968. Pháo mới có nòng dài hơn và bộ hút khói cấu trúc độc đáo được dịch chuyển gần hơn phía giữa nòng.

Cơ số đạn (44 viên) gồm các phát bắn đơn khối có cánh ổn định: đạn phá-mảnh, xuyên lõm, xuyên giáp dưới cỡ và đạn chứa các phần tử sát thương tiền chế. Tầm bắn hiệu quả là đến 1.000 m. Các phát bắn được để trên các giá đạn trong khoang chiến đấu và khoang lái.

Trên Турe 69 lắp bộ ổn định pháo hai mặt phẳng, cho phép bắn ngắm trong hành tiến. Được phát triển theo công nghệ Liên Xô có sử dụng linh kiện đèn điện tử chân không, thiết bị ổn định tại thời điểm được chế tạo đã thua kém xa về tính năng các mẫu nước ngoài. Hệ thống điều khiển hỏa lực của xe tăng có một máy đo xa laser Турe 82 của hãng CELEC (Trung Quốc) lắp trong vỏ hình hộp bên trên tấm giáp gắn pháo. Nó cho phép đo cự ly trong khoảng 300-3.000 m với độ chính xác đến 10 m. Một máy tính đường đạn tương tự tự động nhận thông tin về cự ly, cũng như có các sensor góc nghiêng của các chốt nòng pháo, góc ngẩng/chúi của pháo (góc tầm). Dữ liệu về nhiệt độ không khí bên ngoài và nhiệt độ đạn được nạp bằng tay. Xe được trang bị các khí tài nhìn đêm kiểu chủ động sao chép của Liên Xô. Máy ngắm tiềm vọng của pháo thủ được lắp ở vị trí nơi lắp thiết bị quan sát có các kênh ban ngày và ban đêm trên tăng Type 59.

Xe tăng được trang bị máy vô tuyến điện 889 có tầm liên lạc đến 25 km và thiết bị đàm thoại trên xe tăng 883 chế tạo theo mẫu của Liên Xô, hệ thống dập lửa bán tự động ППО điều khiển từ khoang chiến đấu và thiết bị tạo khói nhiệt.

Туре 69-I có thiết bị hồng ngoại cải tiến và hệ thống phòng hộ NBC tập thể, Type 69-II được trang bị pháo nòng rãnh 100 mm 59-II, hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến ISFCS-212 do hãng NORINCO phát triển. Hệ thống điều khiển hỏa lực gồm máy ngắm có ổn định cho phép thủ TGS-A, khí tài quan sát và ngắm bắn của trưởng xe, máy tính đường đạn điện tử, hệ thống các sensor thông tin đầu vào (tốc độ gió cạnh, nhiệt độ không khí, độ nghiêng trục chốt nòng pháo), máy đo xa laser, thiết bị ổn định pháo hai mặt phẳng và khối điều khiển. Máy đo xa laser TLR1A lắp trên nòng pháo hoạt động trên cơ sở Neodym. Trên xe tăng còn lắp một máy ngắm đêm dành cho pháo thủ. Một đèn chiếu hồng ngoại được sử dụng để chiếu xạ mục tiêu.

Hệ thống điều khiển hỏa lực ISFCS-212 cho phép tiêu diệt các mục tiêu cố định và di động cả ban ngày lẫn ban đêm bằng phát đạn đầu với xác suất 50-55%. Các mục tiêu thông thường bị tiêu diệt bằng hỏa lực pháo tăng trong vòng không quá 6 s. Xe được trang bị hệ thống dập lửa bán tự động và các tấm chắn sườn xe 5 ngăn để chống đạn xuyên lõm.

Type 79

Type 79 (WZ121D) là biến thể hiện đại hóa sâu của tăng Type 69-II. Ban đầu, tăng có tên gọi Type 69-III. Xe được lắp pháo 105 mm Type 83 (L7A3) có bộ hút khói và vỏ cách nhiệt, được ổn định hai mặt phẳng. Cơ số đạn gồm các phát bắn đơn khối thuộc mấy loại. Tất cả các loại đạn đều được sản xuất ở Trung Quốc theo giấy phép. Trung Quốc cũng đã phát triển các loại đạn vỏ cháy một phần. Pháo có tốc độ bắn đến 10 phát/phút.

Hệ thống điều khiển hỏa lực ISCFS-212 (Type 37A), gồm máy đo xa laser và máy tính đường đạn với các sensor đo gió, góc ngẩng của pháo, góc nghiêng của trục chốt pháo, nhiệt độ không khí và nhiệt độ đạn. Dữ liệu từ các sensor được nạp bằng tay vào máy tính. Hệ thống điều khiển hỏa lực được phát triển với sự hỗ trợ của các chuyên gia của hãng Marconi của Anh. Pháo thủ có một máy ngắm tiềm vọng với trường nhìn ổn định độc lập, một kênh ban ngày có độ khuếch đại bằng 1 và kênh thụ động nhìn đêm dùng bộ biến đổi quang-điện tử thế hệ 2.

So với Type 69, hình dáng tháp xe có thay đổi chút ít, có lắp các súng phóng lựu khói 4 nòng 76 mm và các hòm dụng cụ. Súng máy bắn về phía trước bị loại bỏ. Xe được lắp các tấm chắn sườn xe, sử dụng xích xe với khớp cao su kim loại.

Động cơ xe tăng là động cơ diesel kiểu chữ V 12 xy lanh làm mát bằng chất lỏng 12150L-7BW công suất 730 mã lực ở tốc độ 2.000 vòng quay/phút. Bộ truyền động cơ khí có cấu tạo tương tự bộ truyền động của tăng Type 59. Xe có trọng lượng chiến đấu 37,5 tấn, tốc độ tối đa 50 km/h. Trung Quốc đã sản xuất gần 800 xe Type 79 (có nguồn nói 519 xe).

Cần lưu ý là đến cuối thập niên 1980, quân đội Trung Quốc đã nhận vào trang bị gần 200 xe tăng Type 69 và 400-500 Type 79.

>> Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Các xe tăng hiện đại Type 88, Type 96 (2)
>> Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Các xe tăng hiện đại Type 98, Type 99 (3)
Nhân Vũ