In bài này
Tàu khu trục và frigate trong chiến tranh hiện đại (2)
Thứ Ba, 16/09/2014 - 3:43 PM
Chiến tranh Việt Nam về hình thức đã bắt đầu chính là trên biển - từ cái gọi là Sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
>> Tàu khu trục và frigate trong chiến tranh hiện đại (1)

Mỹ nói rằng, ngày 2/8/1964, các tàu phóng lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công 2 tàu khu trục Mỹ trong Vịnh Bắc Bộ. Cho đến nay, vẫn chưa rõ là chuyện này đã xảy ra trên thực tế hay là do người Mỹ bịa đặt để có cớ phát động chiến tranh, hay là người Mỹ tưởng tượng ra. Trong quá trình chiến sự sau đó, đã không xảy ra những trận hải chiến do sự bất cân đối về lực lượng hai bên.
Chiếc tiêm kích MiG-17 đã thực hiện cuộc tập kích vào tàu khu trục USS Higbee của Hải quân Mỹ vào ngày 19/4/1972 (Binh Giang / wikimedia.org)

Chỉ vào tháng 4/1972, khi quân đội Bắc Việt đã phát động cuộc tổng tiến công nhằm đánh bại hoàn toàn kẻ địch, 2 chiếc tiêm kích MiG-17 đã tấn công biên đội tàu Mỹ (1 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục) đang bắn phá bờ biển miền Bắc Việt Nam. Mặc dù các tiêm kích nhỏ này hoàn toàn không được thiết kế để tấn công các tàu chiến lớn, chúng đã gây thương tích nặng cho tàu khu trục USS Higbee, loại khỏi vòng chiến tháp pháo ở đuôi tàu. Người Mỹ tuyên bố đã bắn hạ 1 chiếc MiG, nhưng người Việt Nam bác bỏ. Dù sao, đây cũng là cuộc tấn công bằng không quân thành công đầu tiên sau Thế chiến II nhằm vào các tàu Hải quân Mỹ.

Bên cạnh đó, tại khu vực Biển Đông đang diễn ra cuộc xung đột kéo dài nhiều năm về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Với thói bành trướng đã thành tính, Bắc Kinh đòi chủ quyền đối với cả Biển Đông. Dĩ nhiên là các nước ven biển còn lại không chấp nhận, nhưng phản kháng trực tiếp chỉ có Việt Nam.


Tháng 1/1974, đã diễn ra trận chiến tranh giành quần đảo Hoàng Sa giữa hải quân Trung Quốc và hải quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Tham gia trận đánh ở phía Trung Quốc có 6 xuồng tuần tra (4 chiếc lớp Projekt 122 do Liên Xô đóng, 2 chiếc lớp 037 Hải Nam do Trung Quốc tự đóng), phía quân đội VNCH có 3 frigate và 1 corvette do Mỹ đóng. Tất cả các tàu đều rất lạc hậu và thô sơ. Ưu thế thực tế về lực lượng thuộc về phía Việt Nam, nhưng người Trung Quốc đã giành chiến thắng khi đánh đắm tàu corvette của đối phương, còn các frigate thì rút lui. Gần như tất cả các xuồng tuần tra Trung Quốc đều bị thương nặng.

Tháng 3/1988 đã xảy ra trận đánh giành giật các đảo ở quần đảo Trường Sa giữa hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam. Thực ra, đây khó có thể gọi là một trận đánh khi 3 frigate Trung Quốc (tức là các tàu chiến thực sự) tấn công 2 tàu vận tải và 1 tàu đổ bộ (do Mỹ đóng trong những năm 1940) của Việt Nam. Cả 2 tàu vận tải đã bị đánh chìm, tàu đổ bộ bị thương nặng và lao lên một hòn đảo. Tuy vậy, mặc dù lực lượng đôi bên là không cân xứng, bộ đội Việt Nam đã kháng cự mãnh liệt, không để quân Trung Quốc chiếm hòn đảo mặc dù họ đã mất các tàu. Các tàu của Hải quân Liên Xô đóng ở Cam Ranh chẳng giúp gì cho Việt Nam mặc dù họ có các nghĩa vụ pháp lý đó. Giống như vào tháng 1/1974, các tàu Hải quân Mỹ ở vịnh Subic, Philippines chẳng hề giúp đỡ gì cho hải quân VNCH mặc dù họ cũng có những cam kết như thế.

Tất cả những trận hải chiến nêu trên đã không có ảnh hưởng thực sự đến kết cục của các cuộc chiến tranh liên quan hay đơn giản chỉ là những trường hợp đơn lẻ.

Hoạt động tác chiến trên biển đã được tiến hành mạnh mẽ trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan vào tháng 12/1971. Ngay trong ngày đầu chiến tranh (4/12) tại vịnh Bengal, tàu khu trục INS Rajput của Ấn Độ, (trước đây là tàu khu trục HMS Rotherham (H09) của Hải quân Anh, đóng trong những năm 1940), đã đánh chìm tàu ngầm PNS Ghazi (trước đây là tàu ngầm USS Diablo (SS-479) của Hải quân Mỹ, đóng trong những năm 1940).

Đêm mồng 4, rạng sáng mồng 5/12/1971, 3 xuồng tên lửa lớp Projekt 205 của Ấn Độ được sự bảo vệ của 2 frigate lớp Projekt 159 (đều do Liên Xô đóng) đã thực hiện cuộc tập kích vào cảng Karachi, dùng tên lửa chống hạm P-15 đánh chìm tàu khu trục PNS Khaibar, taufn quét lôi Muhafiz của Hải quân Pakistan, cũng như tàu vận tải Liberia chở đạn của Mỹ cho quân đội Pakistan. Tàu khu trục Shah Jahan bị thương nặng và bị cắt làm sắt vụn ngay sau chiến tranh.

Cần lưu ý rằng, cả 2 tàu khu trục Pakistan, cũng giống như tàu khu trục Eilat của Israel, đều được đóng ở Anh trong những năm 1940 khi mà chưa hề nói đến tên lửa chống hạm. Tuy nhiên, thành công của Hải quân Ấn Độ đã dẫn đến hiện tượng tuyệt đối hóa tạm thời các xuồng tên lửa.

Đêm mồng 8, rạng sáng mồng 9/12/1971, Hải quân Ấn Độ dùng 4 xuồng tên lửa tấn công Karachi một lần nữa, đánh chím 1 tàu Panama, 1 tàu Liberia, 1 tàu Anh và 1 tàu Hy Lạp, thiêu cháy không dưới một nửa các bồn nhiên liệu trong cảng Karachi.

Các xuồng cứu sinh bên tàu tuần dương ARA General Belgrano của Hải quân Argentina đang chìm, ngày 1/5/1982 (AP)

Ngày 9/12/1971, Pakistan đã báo thù được phần nào: tàu ngầm PNS Hangor (tàu ngầm mới nhất lúc đó, lớp Daphné, do Pháp đóng) của Hải quân Pakistan đã đánh đắm frigate INS Khukri (cũng là tàu do Anh đóng trong thập niên 1940) của Hải quân Ấn Độ. Cho đến nay, đây là chiến thắng duy nhất của một tàu ngầm diesel trong suốt thời kỳ sau năm 1945 (có lẽ trường hợp thứ hai là vụ đánh đắm corvette Cheonan của Hải quân Hàn Quốc vào tháng 3/2010, nhưng vẫn chưa có thông tin khách quan xác nhận nó bị một tàu ngầm Bắc Triều Tiên đánh chìm).

Tàu sân bay Ấn Độ INS Vikrant (do Anh đóng và mang các máy bay cường kích Sea Hawk của Anh) được sự bảo vệ của 3 frigate đã triển khai hoạt động trong vịnh Bengal. Các máy bay Sea Hawk của tàu đã đánh đắm một số lượng lớn tàu vận tải, các giang hhạm và xuồng ở Đông Pakistan, khu vực mà sau chiến tranh trở thành nước Bangladesh độc lập. Tại đây, quân Ấn Độ đã tác chiến như trên bãi tập vì quân Pakistan đã mất tàu ngầm duy nhất ở chiến trường này (chính là tàu ngầm PNS Ghazi) và toàn bộ không quân chiến đấu ngay trong ngày đầu của cuộc chiến tranh.

Khác với các cuộc chiến tranh khác, hoạt động chiến đấu trên biển trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakisttan năm 1971 đã có tầm quan trọng chiến lược: Hải quân Ấn Độ đã làm tê liệt hoạt động của hải quân và hạm đội tàu buôn Pakistan, cô lập hoàn toàn các khu vực Tây Pakistan và Đông Pakistan với nhau, tạo điều kiện cho Ấn Độ giành chiến thắng chung nhanh chóng.

Cuộc chiến tranh Falklands từ tháng 4-6/1982 là cuộc chiến tranh duy nhất sau năm 1945 mà trong đó hoạt động tác chiến trên biển đóng vai trò chủ đạo. Ban đầu, khi chiến đấu “trên sân nhà”, Argentina đã có ưu thế lớn cả trên biển, lẫn trên không. Nhưng ưu thế kỹ thuật và chiến thuật lại ở phía Anh.

Điểm bước ngoặt của cuộc chiến là việc tàu ngầm nguyên tử Anh Conquerror đánh chìm tàu tuần dương General Belgrano của Argentina (đến nay, đây vẫn là chiến thắng đầu tiên trong lịch sử hải chiến của tàu ngầm nguyên tử). Ở góc độ nào đó, ở đây đã lặp lại câu chuyện của tàu khu trục Eilat của Israel và tàu khu trục PNS Khaibar của Pakistan: chiếc tuần dương hạm Argentina được đưa vào biên chế Hải quân Mỹ với tên USS Phoenix vào năm в 1938  (được bán lại cho Argentina vào năm 1951, khi mà chưa ai có thể tưởng tượng ra sự xuất hiện của tàu ngầm nguyên tử. Tuy vậy, sự tử vong của tàu tuần dương General Belgrano đã loại hoàn toàn hạm đội Argentina khỏi vòng chiến.

Chỉ còn tàu ngầm ARA San Luis (lúc đó là tàu ngầm tối tân lớp Type 209 do Đức đóng) là còn xuất trận mấy lần để tấn công các tàu Hải quân Anh, nhưng không gặt hái thành công. Tất cả những tổn thất còn lại của hai hạm đội đều do máy bay gây ra. Quân Argentina đã mất 1 tàu ngầm (do Mỹ đóng trong thập niên 1940), 1 tàu tuần tra và 1 tàu vận tải (còn 1 tàu tuần tra và 1 tàu vận tải khác thì bị quân Anh chiếm giữ tại quần đảo Falklands). Quân Anh tổn thất 2 tàu khu trục lớp Sheffield, 2 frigate lớp Amazon, 1 tàu chở container Atlantic Conveyor và 1 tàu đổ bộ. Trong đó, 1 tàu khu trục (chính là tàu HMS Sheffield) và tàu chở container bị đánh đắm bởi tên lửa chống hạm Exocet phóng đi từ các máy bay cường kích Super Étendard (cả tên lửa Exocet và cường kích Super Étendard đều do Pháp sản xuất), 4 tàu còn lại bị diệt bằng bom thường thả từ các máy bay Mirage và Skyhawk.

Nhiều tàu Anh đã bị trúng bom, nhưng một số bom rất lớn trong số đó đã không nổ (đó là các quả bom cũ do Mỹ sản xuất). Tuy nhiên, các máy bay Harrier của Anh (nhờ có khả năng cất/hạ cánh thẳng đứng, có thể cất cánh không chỉ từ các tàu sân bay mà cả từ tàu khu trục và frigate) và các hệ thống tên lửa phòng không hạm tàu đã bắn hạ một phần lớn máy bay Argentina, giúp cho quân Anh làm chủ hoàn toàn không phận bên trên quần đảo Falklands, còn việc phong tỏa lực lượng Argentina đồn trú trên quần đảo đã được tổ chức ngày từ những ngày đầu chiến tranh. Tất cả những điều này đã cho phép người Anh giành chiến thắng.

Hoạt động tác chiến trên biển cũng chiếm phần rất đáng kể trong chiến tranh Iran-Iraq. ở Giai đoạn đầu chiến tranh, đã xảy ra các trận đánh giữa các xuồng tên lửa lớp Projekt 205 của Iraq và lớp Combattante II do Pháp đóng của Iran. Ngay trong tháng đầu chiến tranh (tháng 9/1980), 4 xuồng lớp Projekt 205 của Iraq đã bị đánh đắm (2 chiếc bị đánh đắm bởi các xuồng Iran và 2 bởi máy bay). Ngày 28/11/1980, ở phía tây vịnh Persique đã diễn ra trận không-hải chiến lớn nhất trong cuộc chiến tranh này, trong đó Iran đã thắng lớn. Các xuồng tên lửa Iran đã đánh chìm 2 xuồng tên lửa Iraq lớp Projekt 205, còn các máy bay F-4 và F-5 đánh đắm thêm 3 xuồng tên lửa lớp Projekt 205 và 4 xuồng phóng lôi lớp Projekt 183, cũng như bắn rơi 6 máy bay MiG-23, 1 MiG-21 và 1 trực thăng SA321 do Pháp sản xuất của Iraq. Iran chỉ mất 1 xuồng tên lửa (bị đánh chìm bởi tên lửa chống hạm P-15 phóng từ các xuồng tên lửa Iraq) và 1 F-4 (bị 1 MiG-23 của Iraq bắn hạ). Sau trận đánh này, thực chất Hải quân Iraq đã chấm dứt sự tồn tại.
Frigate Sahand của Iran đang chìm ở vịnh Persique, ngày 18/4/1988 (wikimedia.org)

Sau đó, cuộc chiến tranh trên biển tiếp diễn dưới hình thức các cuộc tấn công của không quân hai bên (từ phía Iran còn cả của tàu chiến và xuồng chiến đấu) vào các tàu chở dầu đi từ các cảng của đối phương. Quốc tịch của các tàu dầu chẳng có ý nghĩa gì. Trong cuộc chiến tranh này, đã thực hiện 451 cuộc tấn công vào tàu bè ở vịnh Persique (283 cuộc từ phía Iraq, 168 cuộc từ phía Iran). Kết quả là 11 tàu bị đánh chìm, 340 tàu bị thương. Người Iraq tích cực hơn nhiều trong cuộc chiến này. Ví dụ, tháng 3/1988, các máy bay ném bom Tu-22 của họ đã bắn cháy 2 siêu tàu chở dầu Iran: Avaj (trọng tải 316.379 tấn) và Sanandaj (253.837 tấn), làm chế hơn 50 người. Ngoài ra, ngày 17/5/1987, 1 máy bay Mirage F1 của Iraq đã bắn 2 quả tên lửa chống hạm Exocet vào frigate USS Stark (lớp Oliver Hazard Perry), làm chết 35 thủy binh. Chiếc tàu chiến Mỹ may mắn không chìm chỉ vì 1 trong 2 quả Exocet đã không nổ.

Bên cạnh đó, Mỹ đã không chỉ ủng hộ Iraq trong cuộc chiến tranh này, mà từ mùa thu năm 1987, còn bắt đầu giao chiến bên phía Iraq. Tháng 9/1987, người Mỹ đã bắn bị thương, sau đó chiếm giữ và giật nổ 1 tàu đổ bộ của Iran. Mọi cáo buộc về các vụ tấn công tàu thương mại chỉ nhằm vào Iran, ngay cả cuộc tấn công của Iraq vào tàu USS Stark cũng được người Mỹ làm ngơ. Tuy nhiên, không được quên rằng, nguyên nhân của cuộc chiến này cũng chính là việc Iraq xâm lược nhằm đánh chiếm các khu vực tây nam Iran nhiều dầu mỏ nhất. Nhưng người Mỹ cũng vẫn bỏ qua cho Saddam Hussein chuyện này.

Ngày 17/4/1988, quân đội Ira triển khai cuộc tổng tiến công chống quân Iran trên khu vực phía nam (khu vực chủ yếu) của mặt trận. Với sự trùng hợp đáng kinh ngạc, ngày hôm sau, Hải quân Mỹ đã tiến hành một chiến dịch lớn ở vịnh Persique chống Hải quân Iran. Tham gia chiến dịch từ phía Mỹ có tàu sân bay hạt nhân USS Enterprise, 2 tàu tuần dương, 4 tàu khu trục, 4 frigate. Kết quả, 1 frigate, 1 xuồng tên lửa và 1 xuồng tuần tra của Hải quân Iran bị đánh đắm, 1 frigate khác của Iran bị thương nặng, 2 dàn khoan dầu của Iran bị tiêu diệt. Điều đó đã hút bớt một phần lực lượng Iran từ mặt trận là đương nhiên là đã giúp cho cuộc tấn công của Iraq giành thắng lợi.

Được khuyến khích bởi sự ủng hộ của Mỹ, Saddam Hussein chỉ hai năm sau chiến tranh với Iran đã phát động cuộc xâm lược mới chống Kuwait. Trong cuộc xâm lược này, quân Iraq đã chiếm được 6 trong 8 xuồng tên lửa của Hải quân Kuwait, điều này đã hồi sinh Hải quân Iraq.

Nhưng Iraq nhanh chóng hiểu ra rằng, xâm lược chống Iran thì được, còn chống Kuwait thì không. Iraq đã bị đánh thảm bại vào tháng 1-2/1991 trong chiến dịch Bão táp Sa mạc. Không quân Anh và Mỹ đã đánh chìm tất cả các xuồng tên lửa trước đây của Kuwait.

Như vậy, các cuộc chiến tranh cục bộ đã khẳng định rằng, địch thủ chủ yếu của hạm đội là không quân. Trong các cuộc chiến tranh Arab-Israel tháng 10/1973 và Iran-Iraq, đã xảy ra các trận đánh giữa các xuồng tên lửa, còn trận hải chiến bằng pháo “kinh điển” duy nhất là trận đánh ở quần đảo Hoàng Sa (cũng có thể coi như thế là trận đánh bằng pháo AK-213 chống các xuồng chiến đấu của Eritrea). Rõ ràng là trong tương lai cũng có thể xảy ra các trận đánh giữa các xuồng chiến đấu của hải quân các nước đang phát triển, không có ảnh hưởng lớn đến kết cục chiến tranh. Nếu như xảy ra các trận hải chiến lớn thì chỉ có trong trường hợp có sự tham gia của hải quân Trung Quốc.

>> Tàu khu trục và frigate trong chiến tranh hiện đại (1)

Nhân Vũ