In bài này
Điệp viên thế kỷ XX: Những điệp viên có cánh của Allen Dulles
Thứ Năm, 09/01/2014 - 9:31 AM
Từ khi Allen Dulles nhiệt tình và khôn ngoan lên nắm quyền lãnh đạo CIA vào năm 1951, hoạt động thu thập tin tức về Liên Xô của cơ quan này được đẩy mạnh. Họ đặc biệt chú trọng đến việc phái điệp viên vào Liên Xô.
Bọn gián điệp nhảy dù

Với sự mở màn của “ chiến tranh lạnh”, các cơ quan tình báo Mỹ và đồng minh phương Tây của họ gặp nhiều khó khăn vì không có tin tức về đất nước “siêu bí mật” là Liên Xô. Họ không nắm được các kế hoạch chính trị và quân sự của Stalin. Bởi vậy, nhiều hành động mà Stalin thực hiện đã làm họ bàng hoàng, ví dụ như việc phong toả Tây Berlin vào 1948, thử quả bom nguyên tử đầu tiên của Liên Xô vào năm 1949 hoặc cuộc tiến công của Bắc Triều Tiên xuống Nam Triều Tiên năm 1950.

Từ khi Allen Dulles nhiệt tình và khôn ngoan lên nắm quyền lãnh đạo CIA vào năm 1951, hoạt động thu thập tin tức về Liên Xô của cơ quan này được đẩy mạnh. Họ đặc biệt chú trọng đến việc phái điệp viên vào Liên Xô. Hoạt động này của người Mỹ đã được sự hỗ trợ tích cực của chuyên gia già đời về Nga, viên chỉ huy tình báo Tây Đức Reinhard Gehlen. Họ không gặp khó khăn lắm với vấn đề tuyển mộ điệp viên. Sau chiến tranh ở lại phương Tây có hàng trăm ngàn “dân di cư” nguyên là cựu công dân Xôviết vì lý do nào đó không muốn trở về Liên Xô. Không ít người trong bọn họ sẵn sàng tham gia cuộc chiến chống lại cố quốc của mình. Các điệp viên tương lại được lựa chọn trong số người đó và được gửi đi đào tạo tại các trường tình báo.

Hai điệp viên đầu tiên đã bước vào hoạt động là F.K. Sarantsev, cựu binh nhất Hồng quân, bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1943 và A.I. Osmanov - một tên đào ngũ, đã tham gia đội quân của Vlasov (A.A. Vlasov - trung tướng Hồng quân, đã đào ngũ theo Đức phát xít và cầm đầu cái gọi là “Quân đội Giải phóng nước Nga” chiến đấu chống Liên Xô trong thời Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại - ND). Địa điểm đến là Moldova nơi chúng đã nhảy dù từ một máy bay Mỹ cất cánh từ căn cứ ở Salonika (Hy Lạp) vào ngày 18 tháng 8 năm 1951. Bọn gián điệp nhảy dù này được trang bị đầy đủ các giấy tờ giả mạo và “lai lịch giả”. Sarantsev trở thành Fedorov, công nhân nhà máy thuốc lá Java ở Moskva, đang nghỉ phép ở Kavkaz nơi mà hắn phải đến sau khi nhảy dù. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ dự kiến, khoảng 3 tuần sau, hắn phải sang Thổ Nhĩ Kỳ, ở đó sẽ có các nhân viên CIA đón hắn. Còn Osmanov phải đến Ural và sau đó cũng quay về qua Thổ Nhĩ Kỳ. Cả hai đều được trang bị điện đài cỡ nhỏ, xe đạp gấp do CHDC Đức sản xuất (các xe đạp này có bán ở Liên Xô), súng ngắn của Đức, mỗi tên mang 5 ngàn rúp, vài bọc tiền vàng và một số đồng hồ (để đút lót khi cần).

Sự tồn tại của chúng ở Liên Xô hoá ra rất ngắn ngủi. Các điện đài của Gehlen đã nhận được một số tín hiệu vô tuyến do bọn gián điệp phát đi, nhưng sau đó thì bị gián đoạn. Cả hai tên gián điệp nhảy dù đã bị bắt trước khi đến được địa điểm định trước. Mấy tháng sau, báo chí Liên Xô đã đưa tin về việc bắt giữ “hai gián điệp Mỹ” và chúng đã bị xử bắn theo phán quyết của toà án.

Cũng thời gian đó (ngày 25 tháng 9 năm 1951), một chiếc máy bay cất cánh từ sân bay ở Wiesbaden (CHLB Đức) đã thả dù tên “điệp viên đi lẻ” Ivan Aleksandrovich Filistovich xuống gần làng của hắn là làng Ilya cách không xa Vileika (ở phía Bắc Minsk). Tuy tuổi còn trẻ, tên này đã có một quá khứ đầy bão tố. Vào đầu chiến tranh, quân Đức chiếm làng quê hắn, hắn đã làm việc cho bọn phát xít Đức, vào cuối chiến tranh, hắn được nhận vào tiểu đoàn SS rồi tham gia chiến đấu chống quân Anh, Mỹ tại Italia. Sau khi Đức đầu hàng, hắn sang Tiệp Khắc, sau đó qua Pháp và Bỉ. Tại Bỉ, hắn vào học tại đại học tổng hợp Thiên Chúa Giáo. ở đó, khi biết người Mỹ đang tuyển mộ thanh niên Nga cho các nhiệm vụ tình báo, hắn đã đến Tây Đức và tốt nghiệp trường tình báo tại đây. Người ra đã nghĩ cho Filistovich một “lai lịch giả vững chắc như thép”. Hắn trở thành một người dân di cư, bị cưỡng bách đến Đức và sau đó làm thợ mỏ tại Bỉ. Nhiệm vụ chính của hắn là tìm lại các điệp viên Đức đang “nằm vùng” ở Belorussya, lập lại tổ chức và đi vào hoạt động. Trong trường hợp không thành công, hắn giả gửi thư đến Paris cho một người bạn, trong đó có kèm theo báo cáo viết bằng mực mật.

Filistovich ở lại Belorusssya một thời gian và đã gửi một số thư đi Paris nhưng hắn không tìm được các điệp viên Đức nằm cùng. Cuối cùng hắn đã bị bắt. Hai năm sau, tên tuổi của Filistovich xuất hiện trong cuốn sách nhỏ của KGB trong số “những điệp viên phát xít và phản cách mạng bị vô hiệu hoá”.

Người Mỹ tiếp tục thỉnh thoảng thả dù các điệp viên vào Liên Xô. Ngày 8 tháng 10, một điệp vụ như thế nhằm thả dù hai điệp viên đã thất bại vì viên phi công Mỹ đã nhầm lẫn thả chúng xuống lãnh thổ Rumani thay vì Ucraina. Cả hai đã bị bắt ngay khi tiếp đất.

Mùa hè 1952, các điệp vụ thả dù gián điệp được tăng cường. Ngày 2 tháng 5, 3 điệp viên L.K. Koshelev, A.P. Kurochkin và L.N. Voloshanovsky - cả 3 đều là lính đào ngủ đã được tung từ Iran xuống Bắc Kavkaz. Kurochkin đã liên lạc được bằng điện đài với các ông chủ của mình và đã cung cấp các thông tin trong mấy tháng. Người Mỹ rất hài lòng. Nhưng chỉ sau đó một thời gian, báo chí Liên Xô đã đưa tin là tên gián điệp Mỹ Kurochkin sau khi nhảy dù đã đầu thú với chính quyền và đã thực hiện “trò chơi điện đài” với các ông chủ cũ của mình.

Tháng 8 năm 1952, Mỹ đã thả xuống khu vực giữa Vitebsk và Mogilyov trên lãnh thổ Bạch Nga cùng một lúc 4 điệp viên: M.P. Artiushevsky, G.A. Kostiuk, T.A. Ostrikov và M.S. Kalnhitsky - tất cả đều là dân di cư cũ được tuyển mộ trong các trại ở Đức. Chúng được lệnh giả dạng là những người bị Đức cưỡng bách xua đuổi thời chiến tranh, đứng chân và vào làm cho các xí nghiệp công nghiệp. Chúng được cấp các giấy tờ và “lai lịch giả” thích hợp. Không lâu sau khi nhảy dù, Ostrikov đã ra đầu thú chính quyền và khai hết về điệp vụ của chúng. Mấy tên đồng bọn của hắn sau đó cũng lần lượt sa lưới. Kalnitsky đã bị bắn chết vì chống cự, hai tên khác bị xử bắn theo phán quyết của toà án. Ostrikov được ân xá.

Các thất bại trên đã làm người Mỹ thất vọng. Việc thả dù gián điệp được thực hiện ít hơn nhiều nhưng lại được chuẩn bị chu đáo hơn, việc tuyển chọn, huấn luyện được tiến hành nghiêm ngặt hơn.

Đêm 25 rạng ngày 26 tháng 4 năm 1953, một máy bay cất cánh từ căn cứ không quân ở Hy Lạp đã tung xuống miền Nam Ucraina 4 điệp viên A.B. Lakhno, S.I. Gorbunov, A.N. Makov và D.N. Remiga được tuyển mộ trong các trại vào năm 1950. Chúng được cấp tiền, ống độc dược, quần áo cũ do Liên Xô sản xuất và mang ủng giả da. Lần đầu tiên bọn gián điệp này được trang bị các phao vô tuyến để dẫn đường cho các máy bay chở bọn gián điệp khác và để thực hiện các chuyến bay do thám. Địa điểm đến và bám rễ của bọn gián điệp này là Kiev và Odessa. Makov là cựu lính thủy, có nhiệm vụ cung cấp thông tin về các công trình cảng và hoạt động của tàu bè trong cảng. Tuy vậy, sau khi nhảy dù xuống, chúng cũng biến mất vô tăm tích. Một tháng sau, báo chí Xôviết đã đưa tin về 4 gián điệp Mỹ nhảy dù đã bị bắt tại chỗ, về phiên toà và việc xử bắn chúng. Tất cả những nỗ lực, công phu chuẩn bị chu đáo của Mỹ và Gehlen đã biến thành tro bụi và do đó có đầy đủ cơ sở để nghi ngờ có điệp viên Liên Xô trong “Liên minh nhân dân lao động”, tổ chức đã giúp đỡ tuyển chọn điệp viên để tung vào Liên Xô. Sau này, vào năm 1954, người ta mới biết là nhóm gián điệp này đã bị điệp viên Liên Xô, cựu đại uý Nikita Khorunzhim tố giác. Ông này đã giả chạy sang phía người Mỹ vào năm 1948 và thậm chí còn lọt được vào làm giáo viên trong trường tình báo đào tạo các điệp viên. Ông đã bị người trợ lý tố cáo và bị bị kết án 14 năm tù. Năm 1959, ông được trao đổi lấy một điệp viên Mỹ.

Thất bại này dường như đã được giảm nhẹ phần nào nhờ thành công lớn của một nhóm khác nhảy dù xuống khu vực Minsk ngày 29 tháng 4 năm 1953. Nhóm này gồm 4 điệp viên là Konstantin Khmelnitsky, Ivan Kydryatsev, Aleksandr Novikov và Nikolai Yakuta. Khmelnitsky là trưởng nhóm, cựu hạ sĩ quân đội Liên Xô, một nhân viên điện đài giỏi và được các thủ lĩnh của “Liên minh nhân dân lao động” và các chuyên gia của Gehen đặc biệt tin tưởng. Yakuta bị bắt làm tù binh năm 1942, đã sống ba năm trong trại tập trung của Đức, sau chiến tranh đã từ từ chối trở về Liên Xô, làm những công việc mờ ám tại Casablanca cho đến khi được nhận vào “Liên minh nhân dân lao động”, sau đó trở thành người của Gehlen. Novikov đến Đức làm công nhân bị tuyển cưỡng bức vào năm 1943 lúc 17 tuổi, sau chiến tranh bắt đầu làm việc cho “Liên minh nhân dân lao động”. Trước khi nhóm này bay đi làm nhiệm vụ, phó chỉ huy “Liên minh nhân dân lao động” Okolovich đã đến thăm chúng “để bắt tay những người dũng cảm”.

Sau khi nhảy dù, Khmelnitsky đã liên lạc với trung tâm tình báo ở CHLB Đức và báo cáo rằng, theo đúng chỉ thị, nhóm gián điệp đã phân tán, bản thân hắn hoạt động ở vùng Minsk và Mogilyov, một tên khác thì đến Smolensk. Số còn lại thì im lặng, trong khi Khmelnitsky tiếp tục gửi về một khối lượng lớn thông tin. Điều đó kéo dài được khoảng ba năm. Khmelnitsky đã đi khắp Liên Xô, lôi kéo được nhiều bạn bè và lập ra các “chi hội những người bất mãn”. Các tin tức mà hắn gửi hấp dẫn đến nỗi Allen Dulles đích thân đến chúc mừng Gehlen nhân thành công lớn này.

Và bỗng như tiếng sấm giữa trời quang, tháng 2 năm 1957, phòng báo chí Bộ Ngoại giao Liên Xô đã tổ chức cuộc họp báo đặc biệt. Trong phòng họp đèn đuốc sáng choang, và sau những chiếc bàn chất đầy những đồ dùng gián điệp, trong đó có 3 chiếc điện đài của Mỹ, các khẩu súng ngắn ổ quay, bản đồ, túi tiền vàng, những chiếc dù đã được gấp cẩn thận, ông trưởng phòng báo chí đang giới thiệu với 200 nhà báo nước ngoài 4 gián điệp bằng xương bằng thịt là Khmelnitsky, Yakuta, Novikov và Kudryavtsev. Ba tên sau trông ủ rũ, nhợt nhạt hiển nhiên là do những tháng ngồi tù. Còn Khmelnitsky thì lại sảng khoái, vui vẻ. Anh ta tuyên bố mình là điệp viên của phản gián Xôviết từ năm 1945 và liên hệ với những người di cư nhằm mục đích “khám phá âm mưu phát xít chống lại Tổ quốc Xôviết của chúng ta”. Pha chút khôi hài, Khmelnitsky kể rằng, sau khi họ được tuyển mộ và huấn luyện trong trường tình báo, người Mỹ và bọn “tay sai Gehlen” của chúng “đã khuyến khích rượu chè, cờ bạc và buông thả, thậm chí còn dẫn chúng tôi đến các lầu xanh ở Munich”.

Khmelnitsky thông báo một số chi tiết về việc đào tạo gián điệp và đã mô tả về nhiệm vụ của mình như sau: “Gián điệp quân sự và kinh tế, đánh cắp các tài liệu của Liên Xô, phao tin đồn nhảm, lôi kéo các công dân Xôviết tư tưởng không vững vàng vào mạng lưới phát xít, bôi nhọ uy tín các cán bộ đảng và chính quyền Xôviết. Sau đó “điệp viên hai mang” này đã thông báo một tin gây ấn tượng mạnh nhất: Trong gần 4 năm, ông đã tiến hành “trò chơi điện đài” với người Mỹ, truyền đi những thông tin do cơ quan an ninh Xôviết chuẩn bị. Theo lời ông, trò chơi đã đạt thành công tới mức Liên Xô đã đánh lạc hướng hoàn toàn người Mỹ trong nhiều vấn đề quan trọng và trên cơ sở những chỉ thị và yêu cầu mà ông nhận được, Liên Xô “đã khám phá được nhiều kế hoạch bí mật của bọn âm mưu phát xít đang mưu đồ chống lại Tổ quốc Xôviết”.

Quá bối rối, thủ tướng CHLB Đức Adenauer đã phải hạ lệnh cho Gehlen chấm dứt các chiến dịch nhảy dù chống Liên Xô để tránh các rắc rối quốc tế. Tuy nhiên, CIA thỉnh thoảng vẫn tiếp tục thả điệp viên với sự giúp đỡ “không chính thức” của Gehlen. Với sự bắt đầu của thời đại máy bay do thám U-2 và hoạt động trinh sát đường không đã có bước tiến bộ lớn, các chiến dịch thả dù điệp vên đã mất đi phần lớn tầm quan trọng trước kia. Moskva đôi khi vẫn đưa tin về việc bắt giữ được những tên gián điệp nhảy dù (ví dụ như bắt nhóm gián điệp Mỹ có mật danh “Quadrat B-52”, bắt tên Okhrimovich gần Kiev vào năm 1954 và V. Slavny vào năm 1960), nhưng đó chỉ là những trường hợp hiếm hoi.

Tái bút. Toàn bộ các sự kiện trên được lấy từ báo chí Liên Xô trong những năm 50-60 và sách báo phương Tây. Các chuyên gia tình báo Mỹ khẳng định rằng, trên báo chí chỉ đề cập đến các sự kiện mà công luận đã biết. Theo họ, đã có nhiều cuộc đổ bộ bằng dù thành công xuống lãnh thổ Liên Xô và vẫn chưa bị phát giác nên đã cho phép CIA nhận được những thông tin quý giá. Biết nói thế nào bây giờ, điều đó cũng hoàn toàn có thể...

Chu Hà