In bài này
Điệp viên thế kỷ XX: Bại lộ điệp viên đồng tính A-17 (2)
Thứ Tư, 25/12/2013 - 6:24 PM
Bí mật của Đại tá Alfred Redl là ông say mê những người cùng giới tính. Ông là nạn nhân của sự đam mê ấy và cũng chính vì nó mà ông đã gục ngã.
Vạch mặt đại tá Redl

Chèn chú thích ảnh vào đây
Thông tin đầu tiên về sự kiện này xuất hiện trên báo Berliner zeitung am mittag. Ngày 26 tháng 5 năm 1913, phóng viên tại Praha của báo này đưa tin: trong một khách sạn ở Viên, đại tá Alfred Redl, tham mưu trưởng sư đoàn Áo đồn trú tại Praha đã dùng súng tự sát.

Đại tá Redl là một nhân vật khá nổi tiếng trong giới quân sự Đức. Người ta biết ông là người có đường công danh thành đạt và bộ chỉ huy Đức rất có thiện cảm với ông. Người ta cũng biết rõ chi tiết tiểu sử quân ngũ của Redl - họ có liên hệ với công việc của Redl ở cơ quan phản gián Áo. Thế đấy - một kết cục lạ lùng và bí ẩn.

Tin đưa trên tờ Berliner zeitung am mittag đã gây ra một đống những lời đồn đại, đoán già đoán non.
Ngay tít bài báo cũng đã rất giật gân: “Phải chăng tham mưu trưởng làm gián điệp?”

Cũng phóng viên đó đưa tin: “Praha, ngày 27 tháng 5 năm 1913. ở đây đang lan truyền những tin đồn rất lạ lùng về cái chết của tham mưu trưởng, đại tá Redl, người đã tự sát trong một khách sạn ở Viên. Chúng gắn trực tiếp vụ tự sát này với vụ khám phá gián điệp mới đây”.

Tuy là một người có xuất thân khá khiêm tốn, nhưng đại tá Redl đã sống rất xa hoa.

Như người ta khẳng định, ông ta tự sát vào chiều hôm qua khi mà lẽ ra ông ta phải có mặt theo triệu tập ở Bộ Chiến tranh. Ông ta bị Bộ Chiến tranh nghi là có quan hệ với các tổ chức tội phạm và chính các tổ chức đó có thể đã thúc đẩy ông ta phản bội”.

Cần phải nói rằng, tác giả những bài báo này là người khá thạo tin. Ông ta thường nhận được tin, như người ta bây giờ thường nói, từ tận gốc vì ông ta là biên tập tờ báo Bohemia ở Praha vào có những quan hệ rộng rãi.

Nảy sinh câu hỏi: tại sao ông ta lại quyết định đưa tin đúng trên một tờ báo Berlin? Chẳng lẽ ông ta không được được chúng trên tờ báo của mình?

Tất cả được lý giả rất đơn giản: chỉ cần một tin ngắn như trên xuất hiện trên các trang báo Bohemia thì nó kéo theo một vụ xì căng đan tất yếu: cơ quan kiểm duyệt sở tại có lẽ đã đóng cửa tờ báo và tịch thu toàn bộ số báo.

 Báo chí Berlin không phụ thuộc vào kiểm duyệt của Áo và biên tập viên của tờ Bohemia đã quyết định hành động kiểu tránh né.

Tin đồn về việc đại tá Redl làm gián điệp đã có tác động như một quả bom.

Sự ồn ào dâng lên trước hết trong các giới quân sự có liên quan. Bộ Tổng tham mưu Đức lập tức yêu cầu giới chức quân sự Áo-Hung cho biết bằng điện báo về vụ Redl.

Phóng viên của tất cả các tờ báo lớn trên thế giới đã chôn vùi bộ chỉ huy Áo bằng những bức điện yêu cầu cho biết chi tiết.

Tuy vậy, đến cả Bộ Tổng tham mưu Áo cũng đang rất bối rối. Cơ quan này đã yêu cầu các cơ quan điều tra phải cung cấp thông tin chi tiết về điều đã xảy ra.

Vị Hoàng đế già Franz-Joseph cũng lo lắng thật sự khi được các cận thần cho biết về điều đã xảy ra.

Báo chí tiếp tục công kích giới quân sự Áo. Nhưng họ vẫn kiên trì im lặng. Các nhà báo đành phải hài lòng với những tin đồn như trước.

Nhưng những đồn đại ngày một cay độc hơn. Theo những lời đồn đó, đại tá Alfred Redl, người cầm đầu cơ quan phản gián của Bộ Chiến tranh Áo, trong đã nhiều năm làm việc cho tình báo Nga và đã chuyển cho Nga vô số tài liệu mật.

Thông tin này không chỉ có liên quan đến những bí mật quân sự của Áo-Hung vì Redl từng có quyền tiếp cận nhiều tin tức của cả quân đội Đức.

Trong khi  báo chí thế giới đã đưa về tất cả sự việc này dưới những dòng tít lớn trên trang nhất thì các tờ báo Áo vẫn chẳng dám hé răng về hoạt động gián điệp của Redl. Tính nết của cơ quan kiểm duyệt quân sự Áo rất khắc nghiệt mà.

Nhưng người biên tập viên nhanh trí của tờ báo Bohemia lập tức thể hiện sáng tạo của mình và đã làm theo cách sau. Một ngày nào đó, ông cho đăng trong tờ báo của mình cái gọi là “tin cải chính”:

“Từ các giới thạo tin, chúng tôi đã nhận được yêu cầu bác bỏ những lời đồn cho rằng tham mưu trưởng lực lượng đồn trú Alfred Redl, người đã tự sát trong một khách sạn ở Viên, là người đã trao những bí mật quân sự cho Nga. 

Một uỷ ban đặc biệt đã lên đường đi Praha và trước sự chứng kiến của vị tư lệnh quân đoàn, nam tước Gizel, họ đã mở niêm phong phòng làm việc của người quá cố và tiến hành lục soát giấy tờ của ông ta. Trên cơ sở những tin tức thu được trong cuộc lục soát này, uỷ ban đã cho rằng, nguyên nhân của cái chết là những động cơ có tính chất hoàn toàn khác”.

Những người biết đọc báo chí trong điều kiện có kiểm duyệt đều hiểu rõ cái “tin cải chính” đó được đăng để làm gì”.

Chẳng cần phải sáng ý mới có thể hiểu: câu chuyện về “những động cơ có tính chất hoàn toàn khác” chỉ là để đánh lạc hướng dư luận. Điều quan trọng là nó đã thúc đẩy sự tưởng tượng của độc giả. Trong khi đó thì cơ quan kiểm duyệt cũng chẳng hoạnh hoẹ được gì tờ báo. Cái tin ngắn ấy đã bác bỏ những lời đồn “xuyên tạc” cơ mà! Hơn nữa nó lại ám chỉ đến “những giới thạo tin” - một anh phóng viên ồn ào thì có thể liên hệ với ai được cơ chứ!

Giữa lúc đó thì vụ xì căng đan ngày càng lan rộng và leo thang. Những chi tiết dần dần được hé lộ khiến dư luận tin rằng, câu chuyện đang nói về vụ gián điệp có quy mô mà châu Âu chưa từng thấy.

... Alfred Redl thực tế xuất thân từ một gia đình nghèo, tầm thường. Vào tuổi thanh niên, ông ta gia nhập quân đội Áo.

Chàng trai nhiệt tình, tự trọng luôn ấp ủ ước mơ về công danh, về địa vị cao trong xã hội. Tuy vậy, anh ta không thể hy vọng có những thành công lớn. Những bạn đồng trang lứa nhưng xuất thân từ những dòng họ quyền thế đã dễ dàng leo cao trong binh nghiệp, bỏ xa Redl.

Và khi đó anh ta đã vùi đầu vào khoa học quân sự. Anh nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử quân sự. Đặc biệt hấp dẫn anh là tất cả những gì liên quan đến hoạt động tình báo. Trong một thời gian ngắn, anh đã trở thành một nhà thông thái siêu phàm trong lĩnh vực này.

Các chỉ huy cơ quan tình báo Áo đã nhanh chóng chú ý đến Redl. Và sau đó, khi còn đang mang quân hàm thiếu tá, Redl đã được bổ nhiệm làm trưởng phòng mật thám quân sự.

Tại đây, những khả năng siêu phàm của Redl, những kiến thức sâu rộng của ông cuối cùng đã tìm được đất dụng võ. Những bản báo cáo của Redl luôn rõ ràng, sâu sắc, quy củ và đầy sức thuyết phục. Trên toàn cõi Áo-Hung không có nhà thông thái cao siêu hơn ông về luật lệ chống gián điệp. Bất kỳ ai một khi do bị nghi ngờ mà lọt vào tay Redl đều biết rõ không thể nào đánh lừa  được vị thiếu tá thông minh và ngang bướng này. Đến các đồng nghiệp cũng phải khiếp sợ Redl.

Các cơ quan tình báo Nga cũng không thể không biết đến tài năng của ông ta. Ông ta là mối nguy hiểm đặc biệt và các điệp viên Nga đã không chỉ một lần sa vào lưới rập mà Redl đã giăng ra.

Cần phải làm thế nào đó để vô hiệu hoá Redl, tìm ra cách để “chặn” ông ta lại, còn lý tưởng nhất là buộc ông ta làm việc cho nước Nga.

Tên tuổi của nhân viên tình báo Nga, người đã bất chấp mọi nguy nan đã tuyển mộ được Redl, cho đến nay vẫn bị che phủ bởi bức màn bí mật.

Nhiều người khẳng định tình báo viên đó, chỉ bằng những con đường mà ông ta có, đã biết được điểm yếu mà Redl phải giấu mọi người nếu muốn tiếp tục mang quân phục.

Trên cương vị công tác, Redl đã gặp nhiều phụ nữ, những người bằng cách này hay cách khác đều có liên quan đến những vụ việc mà ông ta đang điều tra. Trong số họ có những mỹ nhân diễm lệ đã không chỉ một lần mưu toan quyến rũ ông. Nhưng viên thiếu tá vẫn kiên cường đứng vững và không chịu quy phục trước vẻ đẹp quyến rũ của phụ nữ. Trong toàn bộ việc này hình như có một điều bí mật nào đó. Nhân viên tình báo Nga đã đoán ra được chính điều bí mật ấy.

Hoá ra sự thờ ơ của Redl đối với phụ nữ không phải là vì tính cách cứng rắn của ông. Bí mật của ông ta là ông say mê những người cùng giới tính.

Ông là nạn nhân của sự đam mê ấy và cũng chính vì nó mà ông đã gục ngã.

Thay vì phụ nữ, bọn đàn ông bắt đầu “câu nhử” ông ta. Việc “câu nhử” này diễn ra trong mấy tháng và khi nhân viên tình báo Nga kia đã thu thập được đủ chứng cứ không thể bác bỏ, ông liền ra lệnh báo cáo về mình cho thiếu tá Redl.

Văn phòng mà Redl tiếp nhân viên tình báo Nga đã được miêu tả trong ký sự của nhà báo Agon Erwin Kisch.

Ngày 25 tháng 2 năm 1924, ký sự này đã được đăng trong số tiếp theo của tờ “Báo Berlin mới”.

“Mỗi vị khách của căn phòng bí mật này đều không ngờ rằng mình đã bị chụp ảnh nghiêng và trực diện bằng những ống kính lắp trong các khung tranh treo trên tường - Agon Erwin viết. Cũng đúng là mỗi người đều để lại dấu vân tay trên hộp xì gà mà viên thiếu tá mời khách hút, hoặc trên hộp kẹo mà ông ta thường nhã nhặn đãi các nữ khách, trên hộp diêm, gạt tàn - tóm lại là trên bất cứ thứ ghì mà vị khách có thể chạm tay vào. Trên bề mặt của các vật này đã được phủ bởi một hỗn hợp đặc biệt.

Nếu như khách không hút thuốc hoặc quý bà từ chối ăn kẹo thì thiếu tá Redl sẽ xin lỗi và xin phép ra ngoài vài phút, cứ như là vì một việc gì gấp không thể trì hoãn.

Người khách ở lại một mình và nếu người đó dính dáng đến gián điệp thì hiển nhiên sẽ không cưỡng lại sự cám dỗ mà nhòm vào chiếc kẹp tài liệu viên thiếu tá để lại trên bàn. Tất nhiên là trên kẹp đó có dấu “Tuyệt mật”, là người thận trọng, Redl biết cách cài bẫy tóm các vị khách của mình. Bề mặt của kẹp tài liệu cũng được xử lý đặc biệt. Kẻ nào tò mò tất nhiên sẽ để lại dấu vết trên đó.

Trên tường căn phòng có treo một chiếc hộp nhỏ trông giống như một tủ thuốc tại nhà. Trong chiếc hộp này có lắp một ống nghe lén dùng để thu âm câu chuyện trong phòng và ghi vào máy ghi âm  bố trí ở phòng ben cạnh. Tại đó còn có một nhân viên đánh máy có nhiệm vụ đánh máy biên bản”.

Nhưng đã không có ai biết được nội dung câu chuyển giữa hai con người này vì Redl đã ngắt ống nghe lén.

Người ta chỉ biết một điều đó là mấy giờ sau viên sĩ quan Áo, cho đến lúc đó vẫn còn tuyệt đối trung thành với lời tuyên thệ, giờ đã trở thành gián điệp Nga.

Đổi lại, tình báo viên Nga kia đã đưa cho ông ta một tập giấy mô tả chi tiết những hành vi đồng tình luyến ái của ông ta trong những tháng gần đây.

Tại sao Redl không hạ lệnh tóm cổ lập tức vị khách của mình?

Để trả lời câu hỏi này thiết nghĩ cũng không quá khó. Viên thiếu tá thừa hiểu nếu làm thế thì thông tin về những sở thích “kỳ quặc” sớm hay muộn cũng sẽ lộ ra và ông ta sẽ phải chia tay với đường binh nghiệp. Mà điều đó thì vượt quá sức chịu đựng của ông ta, thói hiếu danh, ham mê, khao khát quyền lực quá mạnh ở ông ta. Lại thêm cả những khoản tiền không nhỏ mà người ta đề nghị để ông hợp tác với nước Nga nữa. Đã từng sống cả đời trong nghèo hèn, Redl bị thiêu đốt bởi sự ghen tức với những đồng nghiệp thừa tiền để chi những khoản tiêu xài mà ông thậm chí không thể mơ ước.

Từ ngày đó, Redl bắt đầu cung cấp cho tình báo quân sự Nga tất cả những tin tức mà họ yêu cầu.

Làm việc trong Bộ Tổng tham mưu nên ông ta có quyền tiếp cận các sơ đồ của những pháo đài Áo, các đồn bốt ven biên giới và trên chiến trường. Khi cẩn thận chụp ảnh tất cả những tài liệu đó, Redl đã làm các bản sao và gửi chúng về Nga.

Có một trang trong cuộc đời hoạt động gián điệp của Redl đáng cho ta kể thành một câu chuyện riêng. Vào năm 1903, tình báo Nga yêu cầu ông ta cung cấp kế hoạch động viên của quân đội Áo-Hung mà Bộ Tổng tham mưu Áo xây dựng cho tình huống chiến tranh. Kế hoạch được bảo vệ đặc biệt bí mật vì nếu có nó trong tay, nước Nga có thể giáng cho đối phương những đòn choáng váng.

Redl đã chụp ảnh được kế hoạch siêu mật này và đã trao cho tình báo Nga để lấy một khoản tiền lớn. Tuy vậy, các sự kiện sau đó đã biến chuyển một cách cực kỳ bất ngờ đối với ông.

Vấn đề là ở chỗ, từ lâu đã có một sĩ quan Nga làm việc cho tình báo Áo-Hung hoạt động rất khôn khéo và sáng tạo. Cũng chính từ điệp viên ở Varsava này mà tin kế hoạch động viên chi tiết của quân đội Áo-Hung đã lọt vào tay người Nga đã được gửi về Viên. Tin này đúng là tiếng sấm giữa trời quang và đã làm bộ chỉ huy quân đội Áo rụng rời thất kinh. Nếu như tài liệu siêu mật ấy rơi vào tay đối phương thì điều đó chỉ nói lên một điều là ở đâu đó, ngay sát bên, ngay trong Bộ Tổng tham mưu có một tên gián điệp, một tên phản bội có quyền tiếp cận những điều bí mật nhất của Bộ Tổng tham mưu.

Đúng như chờ đợi, nhiệm vụ truy tìm tên phản bội này được giao cho trưỏng phòng mật thám quân sự, thiếu tá Redl. Vòng tròn đã khép kín.

Một mặt, bước ngoặt như vậy của sự việc hiển nhiên là hoàn toàn chấp nhận được với Redl, - nghĩa là chẳng có một nghi ngờ cỏn con nào nhằm vào ông ta, nhưng mặt khác...

Mặt khác, ông hiểu rõ rằng ông không thể nào ỉm vụ này đi được. Do đó, ông ta phải tìm ra một người nào đó để đổ tội.

Nếu ông ta không tìm ra kẻ phạm tội thì người ta khó lòng để ông ta ở yên ở cương vị cao như vậy nữa. Sự việc quá nghiêm trọng nên ông ta bắt buộc phải làm để khỏi phụ lòng sự tín nhiệm của những người đã giao trọng trách cho mình.

Redl hăng hái tiến hành “truy tìm” và tiến hành thẩm vấn có định kiến đối với nhiều người.

Rồi một ngày, ông ta bất ngờ biến mất mà ông ta ở đâu cũng chẳng ai biết. Xuất hiện tại chỗ làm sau một thời gian, ông báo cáo cấp trên rằng, ông có những tin tức phỏng đoán về những kẻ phạm tội và nêu tên họ những người đó ra.

Người đầu tiên trong số những người được nêu tên là thẩm phán Gekailo. Không lâu trước đó, anh ta đã bị buộc tội biển thủ công quỹ. Để trốn tránh trách nhiệm, Gekailo đã chạy sang Brazil và ở đó anh ta xuất hiện với hộ chiếu Nga dưới cái tên giả.

Redl khẳng định Gekailo phạm tội trao cho Nga kế hoạch động viên và rằng ông ta đã dò ra tung tích của Gekailo. Cần phải bằng mọi cách tóm cho được Gekailo. Nhưng yêu cầu chính quyền Brazil trao trả ông ta vì nghi ngờ tội gián điệp là việc làm vô nghĩa vì nó trái với công ước quốc tế. Sẽ là việc hoàn toàn khác nếu coi đó là một tội hình sự và khi đó Brazil không thể kêu ca gì được.

Và người ta đã làm đúng như thế. Chính quyền Áo-Hung  yêu cầu trao trả Gekailo với tội biển thủ. Viên thẩm phán đã kêu gọi một cách vô vọng sự che chở của lãnh sự Nga, nhưng cảnh sát Brazil đã tìm thấy quân phục Áo trong va li của anh ta và điều đó đã quật anh ta gục hẳn.

Bị đưa về Viên, Gekailo thú nhận tại toà là ngoài việc đánh cắp tiền, còn làm gián điệp cho Nga. Điều duy nhất mà anh ta khăng khăng phản đối là việc trao cho Nga kế hoạch động viên quân đội.

Trong cuốn sách “Các ký sự của cơ quan tình báo”, R. Rown viết rằng, trong thời gian phiên toà, Redl đã đưa ra nhiều bằng chứng buộc tội Gekailo.

“Trong con mắt đầy khâm phục của các thượng cấp, Redl như một thầy phù thuỷ đã lấy ra hàng loạt bức ảnh, thư, bản nháp và những tài liệu khác ghi địa chỉ gửi là nữ gia sư của gia đình một trong những sĩ quan nổi danh nhất của bộ tham mưu Nga ở Varsava. Redl nói với cấp trên là đã tốn 30.000 cuaron để có được những chứng cứ này”.

Redl cố moi ở Gekailo lời thú tội chủ yếu là trao kế hoạch động viên nhưng vô hiệu.

Một lần Gekailo trả lời: “Thưa ngài, làm sao mà tôi có thể kiếm được những kế hoạch như thế? Chỉ có người trong Bộ Tổng tham mưu ở đây, ở Viên này, mới có thể lấy được các kế hoạch ấy để bán cho người Nga”. Và đây chính là lời giải đúng cho bài toán mặc dù bị can không biết điều đó.

Tiếp sau Gekailo, người ta đã bắt giữ thiếu tá Ritter von Wentkowski phục vụ ở Stanislav và đại uý Aht là sĩ quan tuỳ tùng của tư lệnh quân khu Lemberg (L'vov).

Trong quá trình điều tra, Redl đã đưa ra những bức thư mà họ gửi cho tình báo Nga. Các sĩ quan này thú nhận đã cung cấp một số tin tức cho người Nga, nhưng trước sau vẫn phủ nhận sự dính líu vào vụ kế hoạch động viên.
Các điều tra viên không tin họ, những lý lẽ của Redl vẫn có sức thuyết phục hơn.

Tuy vậy, vào một thời điểm nào đó, bất ngờ với tất cả mọi người, Redl đã đột nhiên thay đổi lập trường đối với các sĩ quan bị buộc tội.

Mới hôm qua còn lớn tiếng buộc tội von Wentkowski và Aht, mà bây giờ ông ta bỗng tuyên bố, theo ông ta, chỉ có một mình Gekailo đã chuyển kế hoạch động viên cho Nga, còn cả hai sĩ quan này không có liên quan gì.

Sự thay đổi lập trường đột ngột như vậy của Redl đã làm nhóm điều tra bối rối và kinh ngạc. Sao lại thế được? Chính ông ta đã trình ra toàn bộ tài liệu buộc tội, chính ông ta đã phát hiện mối liên hệ của Gekailo với von Wentkowski và Aht cơ mà, vậy mà đột nhiên - một biến chuyển thật là chóng mặt!

Nhưng Redl ngang ngược vẫn khăng khăng giữ nguyên ý kiến. Tuy vậy, mọi sự đã muộn. Toà cho rằng tội lỗi của các bị can đã được chứng minh và kết án tù đối với họ.

Đâu là nguyên nhân của cách cư xử không nhất quán của Redl tại toà? Một lần nữa chúng ta lại dựa vào R. Rown:
“Redl đã giả mạo tất cả những diễn tiến quay quắt ấy trong con mắt của toà án binh để làm gì?

Lời giải thích cho câu hỏi đó được tìm thấy trong các giấy tờ của ông ta ở Praha.

Thứ nhất, các kế hoạch tấn công của Áo và Đức qua Thorn là do chính ông ta bán cho người Nga. Nhưng thêm vào tiền thưởng, ông ta còn đòi ở các ônng chủ ngoại quốc của mình làm sao để củng cố vị thế của mình, tạo cho ông ta cơ hội thu hút sự chú ý của Viên bằng một vụ khám phá gián điệp kỳ lạ nào đó.

Gekailo,kẻ đã chạy trốn sang Nam Brazil, đã không còn giá trị đối với tình báo Nga, do đó người Nga đã hy sinh anh ta để làm lợi cho Redl. Người Nga đã báo cho Redl biết có thể tìm kẻ chạy trốn ở đâu, làm thế nào để đòi trao trả anh ta và toàn bộ vụ án đã quay sang chống lại anh ta.

Redl tuyên bố là bản thân đã tốn 30.000 cuaron để phát hiện các bị can; thực tế, ông ta chả mất gì cho toàn bộ những chứng cứ hùng hồn này.

Nhưng không phải mọi chuyện đều trôi chảy. Khi Gekailo lôi von Wentkowski vào cuộc mà sau khi ông này bị bắt giữ thì đến lượt cả Aht cũng sa lưới của Redl thì tình báo Nga bắt đầu lo sợ. Hai sĩ quan Áo này được xem là những gián điệp khá nhất của tình báo Nga. Tuỳ viên quân sự của Sa hoàng đã kiếm cớ để đến phòng làm việc của Redl và lệnh cho ông ta lập tức minh oan  cho hai sĩ quan đó, còn nếu không thì....

Redl thừa hiểu rằng, không nên chờ đợi sự tha thứ ở người Nga. Họ trả rất hậu cho các gián điệp của mình, nhưng nếu cần họ sẵn sàng trừng phạt họ rất tàn bạo.

Và nếu ông ta buộc phải mạo hiểm.... cố tác động đến toà để cứu Aht và von Wentkowski”.

Nhưng, như chúng ta đã biết Redl đã không thể minh oan để cứu các điệp viên đó của tình báo Nga.

Tình báo Nga không bằng lòng với Redl.

Lúc đó, để không phá hỏng quan hệ với tình báo Nga, Redl đã phải dấn vào một vụ làm ăn tiếp theo. Đó phải là sự “bồi thường” cho sự thiệt hại hai điệp viên đối với nước Nga.

Riedla đã bán cho Nga một trong những điệp viên Áo lão luyện nhất, chính là viên sĩ quan phục vụ tại Varsava, là người đầu tiên biết được việc chuyển giao kế hoạch động viên. Theo hợp đồng trước với người Nga, Redl đã lạnh lùng đưa điệp viên đó vào bẫy và sau cuộc thẩm vấn ngắn, anh ta đã bị treo cổ.

Tuy nhiên điều đó vẫn là ít. Tình báo Nga ngày càng tàn nhẫn đưa ra nhiều đòi hỏi hơn với Redl. Tình báo Nga không thoả mãn với những tin tức mà anh ta đã cố gắng cung cấp trước đó.

Tình báo Nga đòi ông cung cấp tin về tất cả những điệp viên Áo đang hoạt động ở Nga.

Redl đã cố gắng tận lực. Ông ta đã báo những tên tuổi, mật mã, nơi gặp gỡ, tất cả những gì ông có thể biết. Mỗi thông tin vẫn được trả hậu hình như trước.

... Vào năm 1912, người kế thừa ngai vàng Áo, hoàng tử (Erzherzog) Franz-Ferdinand có chuyến thăm chính thức Sa hoàng. Trong đoàn tuỳ tùng của thái tử có tuỳ viên quân sự, thượng uý Muller.

Khi chuyến thăm kết thúc và hoàng tử cùng đoàn tuỳ tùng trở về, tại Varsava, một đại tá của Bộ Tổng tham mưu Nga đã đến gặp Muller. Viên đại tá đề nghị Muller mua, tất nhiên là với số tiền rất lớn, kế hoạch bí mật tiến công nước Áo của Nga.

Không hề thông báo việc này cho cơ quan tình báo của Viên, Muller đã liên hệ với Bộ Tổng tham mưu Áo và kế hoạch này đã được mua.

Tuy nhiên tin tức về vụ này không thể qua được mắt Redl. Việc đầu tiên mà ông ta làm là báo cho chính quyền Nga tên tuổi viên đại tá đã bán tài liệu. Khi biết bị bại lộ, viên đại tá đã tự sát.

Nhưng Redl không dừng lại ở đó.

Với tư cách chỉ huy cơ quan tình báo, ông được nhận tận tay bản kế hoạch đó của Nga. Sau khi nhận được, ông lập tức thay nó bằng bản kế hoạch giả chuẩn bị kỹ lưỡng. Vị tuỳ viên quân sự, người đã tìm cách hành động qua mặt cơ quan tình báo đã rơi vào tình trạng lố bịch. Không lâu sau, ông ta đã bị triệu hồi. Còn bản kế hoạch thật thì Redl trả lại cho người Nga. Ông ta đã được trả 100.000 cuaron cho toàn bộ điệp vụ này.

Còn còn một kiểu “phục vụ” đặc biệt mà Redl giành cho tình báo Nga. Tất cả các báo cáo của các điệp viên Áo đều qua tay ông ta, kể cả những báo cáo nói về sự tăng cường tiềm lực của quân đội Nga. Redl cố che giấu những tin tức này với chính quyền Áo. Kết quả là tới trước Thế chiến I, đế quốc Áo-Hung chỉ có hình dung gần đúng về quân số của Nga. Những tin tức mà họ có là đã bị cắt bớt và điều đó đã ảnh hưởng đến kết quả chiến sự...

Bộ chỉ huy Áo chỉ biết được chi tiết về hoạt động gián điệp của Redl sau cái chết của ông. Cuộc lục soát căn hộ của ông đã thực sự làm choáng váng những người mà đã bảo lãnh ông. Người ta đã tìm thấy Một lượng lớn các bản sao tài liệu, mật mã, bản đồ, các mệnh lệnh bí mật cho quân đội và nhiều tái liệu quan trọng khác. Tất cả được chứa trong các tủ, két mà người ta buộc phải phá để khám xét. Người ta cũng đã tìm thấy ở đó những cọc tiền. Một số tờ giấy được viết bằng tiếng Nga.

Bằng cách nào mà người ta phát giác được Redl? Ông ta đã làm gián điệp cho Nga đã 10 năm rồi còn gì. Ông ta hành động khôn khéo, sáng tạo, kỹ càng xoá sạch dấu vết. Là một gương mặt quen thuộc trong giới lãnh đạo quân sự cao cấp nhất của Áo-Hung, ông ta được tín nhiệm tuyệt đối.

Vậy mà sự phản bội của Redl cũng vẫn cứ bị phát hiện.

... Để không xa rời thực tế của quân đội, các sĩ quan của bộ tham mưu thường xuyên được cử xuống các đơn vị.
Với mục đích đó mà Alfred Redl cũng được cử đi công tác với cương vị tham mưu trưởng sư đoàn. Tất cả đều biết rằng, viên sĩ quan hăng hái và mẫn cán này sau khi hoàn thành những nghĩa vụ của mình tại Praha sẽ lại được gọi về Bộ Tổng tham mưu. Trong thời gian Redl vắng mặt, trách nhiệm trưởng phòng phản gián ở Viên được giao cho người phó của ông ta.

Đó là một trong những giả thiết. Theo các nguồn tìn khác, câu chuyện xảy ra không giống như thế. Chỉ huy của Redl ở Viên là bá tước von Gizel. Chính ông ta là người đã bổ nhiệm viên thiếu tá trẻ làm chỉ huy cơ quan tình báo. Khi Gizel được điều sang Praha, ông ta đã đòi cho Redl đi theo sang đó để làm tham mưu trưởng cho ông ta.

Đến lúc đó, Alfred Redl đã được thăng quân hàm đại tá. Toàn bộ công việc của mình ông bàn giao lại cho người kế nhiệm là đại uý Max Ronge.

Người kế nhiệm Redl đặc biệt chú trọng đến công tác kiểm duyệt thư tín. Ông ta ra lệnh bóc trộm tất cả thư từ gửi đến Viên gây nghi ngờ dù là nhỏ nhất. Rồi một ngày, trên bàn ông ta có hai phong bì có vẻ lạ lùng đối với các nhân viên kiểm duyệt bưu điện.

Theo dấu trên thư thì cả hai phong bì đều được gửi từ Eidkunen, từ biên giới Nga. Dòng chữ trên các phong bì đều giống nhau: “Opera, Ball 13, thư bảo đảm”. Khi bóc các phong bì, tiền liền rơi ra - 600 và 800 mác.

Cả việc những món tiền lớn như vậy được gửi trong phong bì thường, cũng như trong cả hai phong bì đều không có thư đi kèm đếu rất đáng nghi.

Các phong bì được dán lại như cũ và gửi đến bưu điện. Người ta đã bố trí người trực ở đó để biết ai sẽ người đến nhận chúng. Hai tên mật thám liên tục ngồi trong phòng bên cạnh phòng trả thư tín. Phòng này có chuông đặc biệt nối với phòng trả thư tín. Sau khi trả thư tín, khi cần, nhân viên bưu điện phải bấm chuông báo cho các mật thám.

Một ngày, vào buổi chiều, tiếng chuông quy ước đã vang lên. Các mật thám lao vào gian phòng. Người nhân viên bưu điện chán nản nói với họ rằng người nhận thư vừa mới ra phố. Các mật thám lao ra cửa nhưng họ chỉ kịp ghi nhớ số xe taxi chở người nhận thư bí ẩn đi mất. Một giờ sau, họ tìm được người lái xe taxi và được anh này cho biết anh ta đã cho khách hàng của mình xuống bên cạnh một quán cà phê. Các mật thám ngồi vào xe của anh ta và ra lệnh đi tới quán cà phê đó. ở đó, họ được biết người mà họ đang truy lùng đã rời quán cà phê để đến khách sạn Klomser.

Cũng trên chiếc taxi đó, họ lại lao đến khách sạn. Lúc ngồi trên ghế sau, một mật thám phát hiện ra một bao dao nhíp. Cái bao dao này là của ai được nhỉ? Anh tài xế không thể trả lời câu hỏi này. Trong một ngày trời, anh ta chở biết bao nhiêu là khách. Dù sao thì viên mật thám cứ nhét chiếc bao dao vào túi.

Tại quầy lễ tân khách sạn, các mật thám yêu cầu xuất trình sổ đăng ký khách trọ. Họ lật sổ rất lâu mà vẫn vô hiệu, tên tuổi các khách trọ chẳng nói lên điều gì cho họ cả. Nhưng lại có một cái tên mà họ biết rất rõ, hoá ra là chính ngài đại tá Alfred Redl trọ tại đây. ý nghĩ đầu tiên xuất hiện là đến gặp ông ta và báo cáo về người nhận thư khả nghi. Thế thì đúng quá còn gì - đại tá là người còn lạ gì những thủ đoạn của các điệp viên của địch và có thể đưa ra lời khuyên xác đáng.

Các mật thám đứng trong tiền sảnh bàn bạc với nhau, nên hay không nên đến gặp ngài Redl. Vào lúc đó, trong đầu một mật thám đột nhiên nảy ra ý kiến mới. Lôi chiếc bao dao khỏi túi, anh ta đến gặp người gác cửa đang đứng bên lối vào và nói:

- Ông hãy hỏi từng người xem ai đã đánh mất cái này.

Chưa kịp nói hết câu, mật thám này đã thấy đại tá Redl quần áo chỉnh tề đang xuống thang gác. Anh ta lao tới định cản anh gác cửa thật thà, nhưng anh này đã đến gần viên đại tá với chiếc bao dao trong tay:

- Xin ngài thứ lỗi, ngài đại tá, có phải ngài đã sơ ý đánh rơi cái này không?

Redl đang mãi nghĩ đã sờ tay vào túi một cách máy móc, liếc nhìn chiếc bao đao và trả lời một cách lơ đễnh:

- Đúng, đúng, xin cảm ơn. Đây là bao dao của tôi...

Nhét bao dao vào túi, ông bước ra khỏi tiền sảnh.

Cả hai mật thám mặt trắng bệch vì bất ngờ, sững sờ rồi sau một thoáng nhìn nhau im lặng, họ cuống cuồng bám theo Redl. Chỉ khi đã ở trên phố, khi đã qua một khu phố, Redl mới hiểu mình đã phạm phải một sai lầm không thể tha thứ. Tim ông thắt lại, ông đã nhớ lại ông đã quên cái bao dao bằng da đáng nguyền rủa này ở đâu. Trên taxi, tất nhiên rồi, trên taxi! Trên xe, ông đã lấy dao ra để dọc phong bì đựng tiền.

Linh cảm bản năng mách bảo ông rằng, hai người đứng trong tiền sảnh khách sạn đó, cạnh người gác cửa, chắc chắn là mật thám. Mắt ông mờ đi. Hiển nhiên là họ đã nghe thấy ông nói gì với người gác cửa.

Sự đãng trí lặt vặt đã làm hại ông.

Redl chạy vào gara chỗ ông để chiếc ôtô của mình. Chắc là ông hy vọng có thể lẩn tránh. Nhưng trên cửa kính của tiệm đồng hồ, Redl trông thấy một trong hai người theo dõi ông. Ông lạnh toát xương sống vì hoảng sợ. Đầu óc ông gấp gáp tính toán. Phải làm cách nào đó để đánh lừa bọn theo dõi.

Ông rẽ vào một cửa hiệu. Móc trong túi ra những chiếc phong bì tội lỗi, Redl xé chúng thành những mảnh nhỏ và ném vào góc. Tính toán của ông thật đơn giản, mấy tên mật thám sẽ chúi đầu vào thu nhặt những mẩu giấy này và lúc đó ông sẽ thoát đi được.

Nhưng bọn mật thám thông minh hơn ông tưởng. Một tên trong số đó ở lại để thu nhặt những mẩu giấy, còn tên kia tiếp tục bám theo  Redl. Trong mấy giờ liền, ông lang thang khắp phố phường ở Viên với tên mật thám khắc tinh của mình lẽo đẽo theo sau. Ông không thể thoát khỏi tên mật thám, hắn quyết bám theo từng bước chân của ông.

Lúc đó thì số phận của đại tá Alfred Redl đã bị định đoạt hẳn. Tên mật thám phải ở lại để thu nhặt những mẩu giấy, sau khi làm xong việc của mình, đã chạy đến một cảnh sát đi tuần, đưa cho anh ta xem phù hiệu của mình và yêu cầu:

- Anh gọi điện ngay tới Cục cảnh sát mật và nhắn với bất kỳ ai nghe máy hai câu sau: “Mọi chuyện đều ổn. Đại tá Redl đã nhận thư”.

Khi nhận được tin này, sĩ quan trực ban của cảnh sát mật đã ôm lấy đầu. Mấy thằng mật thám này điên rồi chắc! Ông ta lập tức phái trợ lý của mình đến bưu điện với nhiệm vụ lấy giấy biên nhận của người nhận các lá thư ấy. Đồng thời ông cũng gọi điện vào Bộ Chiến tranh để báo cáo về việc đã xảy ra.

Trong Bộ Chiến tranh, người ta đã lục soát những công văn giấy tờ có chữ ký của Redl. Khi so sánh tờ biên nhận với những giấy tờ này, mọi nghi ngờ đều tan biến: những lá thư bí hiểm đựng tiền kia đúng là gửi cho chính đại tá Redl. Một lúc sau, những mẩu giấy mà Redl vứt đi cũng đã nằm trên bàn của đại uý Ronge. Hoá ra trong lúc hoảng hốt, viên đại tá đã xé bỏ không chỉ hai phong bì tai vạ kia mà cả những tài liệu khác có tác dụng tố giác ông ta.

Nhiều năm sau, Max Ronge đã viết trong cuốn sách “Tình báo và phản gián” của mình:

“Khi được tin một quan chức lâu năm của cơ quan tình báo chúng ta, chuyên viên quân sự trong nhiều vụ gián điệp đã bị phát giác là một kẻ phản bội, tôi đã như hoá đá. Sau đó đã diễn ra cái việc làm đáng buồn ấy.

Đã xác định được rằng, Redl đi từ Praha về Viên bằng ôtô... Chỉ cần nhìn thấy các mẩu giấy mà Redl xé bỏ cũng đủ để tôi tin chắc câu chuyện đang nói về những địa chỉ che giấu hoạt động gián điệp.

Tôi giải thích cho trưởng phòng tình báo và Phó Tổng tham mưu trưởng về việc cần phải huy động điều tra viên quân sự vào việc - điều cần thiết để uỷ ban toà án bắt đầu công việc... Còn cần có sự cho phép bắt giữ của tư lệnh quân quản thành phố.... Công việc đã được làm ngay mà không bị trì hoãn gì...”.

Trong cuốn sách của của Ronge còn trích dẫn cả nguyên văn một trong các bức thư của phòng tình báo Bộ Tổng tham mưu Nga gửi cho Redl. Trong thư, ông ta có bí danh Nitzetas. Dưới đây là nội dung bức thư:

“Ngài Nitzetas vô cùng kính mến!

Ngài tất nhiên là đã nhận được lá thư của tôi đề ngày 7 tháng 5, trong đó tôi đã xin tha lỗi vì sự chậm trễ trong việc gửi tiền. Đáng tiếc là tôi đã không thể gửi tiền cho ngài sớm hơn. Bây giờ tôi có vinh dự, ngài Nitzetas kính mến, gửi kèm theo đây cho ngài 7.000 cuaron mà tôi liều gửi cho ngài trong lá thư đơn giản này. Về các đề nghị của ngài thì tất cả chúng đều có thể chấp nhận. Trân trọng, I. Dietrich”.

Địa chỉ trên phong bì: “Gửi ngài Nikon Nitzetas, Áo, thành  phố Viên, bưu điện trung tâm, thư bảo đảm”.

Lá thư này đã được phát hiện khi lục soát căn hộ của đại tá Alfred Redl.

Khi tháy tên mật thám vẫn không rời mình, Redl đã có quyết định mới. Ông ta tiến về hướng khách sạn. ở đó, ông ta sẽ gặp người bạn cũ, người mà ông dự tính trò chuyện trong cái buổi chiều bi thảm đối với số phận của ông ấy. Người bạn đó là tiến sĩ Victor Pollak, Tổng chưởng lý của Viện công tố của Toà phúc thẩm tối cao ở Viên.

Tiến sĩ Pollak đúng là đã đợi ông ta trong tiền sảnh khách sạn. Họ cùng vào nhà hàng và ở đó, Redl cúi đầu bắt đầu nói một cách hồi hộp. Giọng nói của ông rời rạc và đứt đoạn, Pollak khó khăn lắm mới hiểu được ý ông. Redl nói liên miên giống như một thằng điên. Nhưng điều chủ yếu mà Pollak hiểu được đó là Redl tự buộc cho mình những tội lỗi nghiêm trọng, thú nhận sự lệch lạc về say mê giới tính của mình. Ông không nói cụ thể điều gì, không hé lộ một lời về hoạt động gián điệp của mình, nhưng lại nói ông đang bị mật thám theo dõi.

Ông cầu xin bạn mình cho phép ông quay về Praha ngay trong đêm, về chỗ ở của mình để ông có thể tự nộp mình cho toà án. Tất nhiên là, mặc dù đang ở trong trạng thái thần kinh hoảng loạn, thỉnh cầu này vẫn che giấu một ý đồ nào đó của Redl. Trong nó vẫn le lói một hy vọng mong manh chạy thoát ra nước ngoài trên đường đi Praha.

Xiêu lòng trước những thỉnh cầu của người bạn, Pollak đã gọi điện thoại ngay từ nhà hàng cho cảnh sát chính trị. Câu trả lời mà ông nhận được hoàn toàn làm ông hài lòng:

- Ngài nói để đại tá Redl đừng lo. Ông ấy cứ việc về phòng trọ mà ngủ. Hôm nay nói về chuyện sắp tới e rằng còn quá sớm...

Pollak đã nói lại toàn bộ điều này cho Redl. Khi biết rằng, thay vì cho phép ông đi Praha, người ta khuyên ông ở lại Viên, Redl đứng dậy khỏi bàn và như người mộng du chẳng thấy gì trước mắt ông bước ra cửa.

Đại tá Urbanski, trưởng phòng tình báo Bộ Tổng tham mưu, khi được đại uý Ronge báo tin, trước khi đưa ra quyết định, đã liên hệ ngay với Tổng tham mưu trưởng von Hetzendorf. Khi biết ông này đang ăn tối ở nhà hàng Grand Hotel, Urbanski đã tới đó và gọi von Hetzendorf từ phòng lớn vào một phòng làm việc và báo cáo những chuyện gì thực tế đã xảy ra với ông này. Để làm bằng chứng văn bản cho sự phản bội của Redl, Urbanski đã đưa ra những tờ biên nhận đã được dán lại. Von Hetzendorf bàng hoàng đến đứng tim. Sau khi bình tĩnh lại, ông yêu cầu trước hết phải áp dụng các biện pháp để không ai được biết chuyện này. Tiếp đó, cần phải lập tức lục soát căn hộ của Redl ở Praha. Còn liên quan đến bản thân viên đại tá thì phải làm thế nào để ông ta không còn sống cho đến sáng mai.

Urbanski bắt tay vào thực hiện mệnh lệnh lạ lùng này. Sau khi quán triệt các sĩ quan mà một số đó bị ông dựng dậy từ trên giường, ông bắt đầu cương quyết hành động.

Vào lúc nửa đêm, bốn sĩ quan gõ cửa phòng trọ của Redl ở khách sạn Klomser. Viên đại tá đã ăn mặc chỉnh tề.
- Tôi biết các anh đến đây làm gì, - ông nói. - Các anh không cần phải giải thích. Xin các anh không hỏi tôi cái gì cả. Tất cả những gì các anh muốn biết, các anh sẽ tìm thấy trong căn hộ của tôi ở Praha. Tôi cho rằng, ở đó người ta đang tiến hành công việc.

Một sĩ quan hỏi:

- Thưa ngài đại tá, người có súng ngắn đấy chứ?

- Không.

Xoay gót giày, như theo khẩu lệnh và không nói một câu, viên sĩ quan ra khỏi phòng và vài phút sau quay lại với khẩu súng ngắn ổ quay trong tay. Anh ta vẫn im lặng như thế đặt khẩu súng lên bàn. Redl bất động. Không nói một câu chào từ biệt, các sĩ quan bước ra khỏi phòng.

Còn lại một mình, Redl viết một cách bình tĩnh và mạch lạc trên nửa tờ giấy viết thư:

“Sự dại dột đã huỷ diệt tôi. Hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi đã phải trả giá cho những tội lỗi bằng cả mạng sống của mình.

Alfred.

1 giờ 15 phút đêm. Bây giờ tôi sẽ chết. Xin đừng mổ xác tôi. Hãy cầu nguyện cho tôi”.

Ông để lại hai lá thư dán kín, một lá gửi cho người anh và một cho tướng Gizel, người đã tín nhiệm và rủ ông sang Praha. Số phận thật là trớ trêu khi mà chính sự tín nhiệm và thăng cấp này đã dẫn Redl tới cái chết. Nếu như những tài năng của ông không làm mê hoặc cấp trên của của ông thì chắc chắn ông vẫn ở lại Viên... Với cương vị của mình trong phòng nắm được nhiều tin tức ấy, ông đã còn có thể che giấu sự phản bội của mình bằng đủ mọi mưu mẹo mà ông đã không còn làm được khi trở thành là một tham mưu trưởng quân đoàn đồn trú ở Praha”.

R. Rown đã viết như vậy về đại tá Alfred Redl.

Vào lúc hai giờ sáng, trong căn hộ vang lên tiếng súng. Đại tá Redl đã xong nợ với cuộc đời.

Ban đầu chỉ có một số ít người được biết về sự phản bội của Redl. Bộ tư lệnh quân quản thành phố Viên đã chuẩn bị một lễ tang trang nghiêm, trọng thể tương xứng với cương vị của người quá cố. Xe tang chở quan tài của ông sẽ được ba tiểu đoàn bộ binh hộ tống, cả núi vòng hoa đã được đặt mua.

Nhưng vào buổi sáng hôm sẽ diễn ra lễ an táng, người ta mới thấy hết sự trái mắt của cái lễ tang trọng thể này. Sự phản bội của Redl đã đến tai nhiều người. vụ xì căng đan mỗi lúc một lớn dần lên.

Các đơn vị sẽ phải tham gia vào lễ tang đã nhận được bức điện sau:

“Việc chôn cất đại tá quá cố Alfred Redl sẽ được tiến hành mà không có bất kỳ nghi thức trọng thể nào. Lệnh này sẽ thay cho mệnh lệnh ra cho các đơn vị ngày hôm qua”.

Chiếc xe tang giản dị chở chiếc quan tài lẻ loi chứa thi hài người quá cố chạy nước kiệu đến nghĩa địa trung tâm thành phố Viên, nơi nó được đưa vào lòng đất ở hàng thứ 29, nhóm 49, trong nấm mồ số 38.

Chẳng có ai đến để tiễn đưa đại tá Redl về nơi an nghỉ cuối cùng.
Chu Hà