In bài này
Điệp viên thế kỷ XX: Người Aria chân chính
Thứ Bẩy, 21/12/2013 - 7:29 AM
Ông chính là một David của thế kỷ này, người đã dùng trí thông minh và sự cương quyết của mình chống lại Goliath là tên khổng lồ Đức quốc xã
V-2 là tên lửa đường đạn đầu tiên thế giới cùng với Faw-1 (V-1) - tên lửa hành trình đầu tiên trên thế giới là những “Vũ khí phục thù” (Vergeltungswaffe) của phát xít Đức, được sử dụng lần đầu tiên để chống nước Anh trong những năm 1944-1945. Quả tên lửa V-2 đầu tiên được phóng đi vào ngày 3.10.1942. Đây là tên lửa chiến đấu tầm xa đầu tiên trên thế giới (DailyMail)
Các cơ quan mật vụ không ưa quảng cáo. Nhưng thỉnh thoảng, người ta vẫn biết được những “chiến công” của họ. Và chúng ta đã có cơ hội để kể về những điệp vụ của một điệp viên quan trọng của tình báo Anh. Chuyện kể về con người có bí danh Robin.

Vào thời của mình, ông khá nổi tiếng trong giới “làm ăn lớn” ở Âu châu. Tại nước Pháp đang bị quân phát xít chiếm đóng, ông thực hiện nhiệm vụ của cơ quan tình báo Anh, đồng thời tích cực tham gia phong trào kháng chiến, điều đã khiến London không hài lòng.

Khi những dòng này được viết nên, Robin đã xấp xỉ 70 tuổi. Chiến tranh dã kết thúc từ lâu, cái gì là bí mật của nó thì người ta cũng đã biết, nhưng ông vẫn yêu cầu phải giấu tên và có lẽ ông còn phản đối nếu người ta gọi ông là gián điệp vĩ đại. Theo ông, các gián điệp hoạt động với mục đích vụ lợi, còn Robin không như thế, ông là nhà tình báo chân chính vĩ đại. Trong suốt thời gian làm việc cho nước Anh và các nước đồng minh, ông không nhận của họ một xu, mà trái lại, ông đã chi cho các điệp vụ số tiền khá lớn trong gia tài không nhỏ của mình và không bao giờ đòi hoàn trả những chi phí ấy. Ông cho rằng, làm việc cho đồng minh nghĩa là ông đã thực hiện những nghĩa vụ công dân và nghĩa vụ quốc gia của mình.

Con người chính nhân quân tử này sinh ra ở Bern (thủ đô Thuỵ Sĩ). Ông là con trai của một người Thuỵ Sĩ gốc Do Thái và người mẹ là một phụ nữ quê ở vùng Alsace. Ông học hành ở Montre, nhưng vào tuổi thanh niên đã cùng cha mẹ chuyển tới Paris, thành phố đã trở thành ngôi nhà thứ hai trong phần lớn cuộc đời ông. Đến năm 1940, khi Robin 47 tuổi, ông đã là một doanh nhân tầm cỡ quốc tế.

Vào cuối tháng 6 năm 1940, chính phủ Pháp đầu hàng và quân đội Đức đã chiếm đóng nước này. Robin hiểu rằng, điều đó báo trước những thay đổi lớn lao và nguy hiểm trong cuộc sống của tất cả những người Do Thái ở Pháp. Và điều đó đã đặt ra cho ông một loạt vấn đề gia đình và cá nhân cấp bách. Ông đã có một lựa chọn: một là trở về nhà ở Thuỵ Sĩ, nơi mà bằng những quan hệ của mình trải dài từ Berlin tới New York, ông có thể tạo nên một gia tài lớn nữa, hai là chuyển sang Anh - ông có nhiều bè bạn làm ăn ở London. Và cuối cùng, ông có thể ở lại Paris và bắt đầu cuộc chiến đấu.

Robin lựa chọn phương án cuối cùng. Đúng một hoặc hai ngày sau, thông qua người bạn cũ của mình, một đại tá Phòng Nhì Pháp (Deuxième Bureaux, cơ quan tình báo quân đội Pháp - ND), ông đã liên hệ với cơ quan tình báo Anh. Liên lạc viên của ông là một người đứng tuổi có một bình phong là hiệu thực phẩm tạp hoá ở một thị trấn ở Tây Bắc Paris. Một hoặc hai tuần sau khi quân Anh di tản khỏi đất Pháp, người ta để lại cho ông một điện đài. Khi biết điều này, Robin nói thẳng với anh ta: “Tôi sẽ làm việc cùng với các anh, chứ không phải cho các anh”.

Sau nhiều chuyến phiêu lưu mạo hiểm, kể cả việc gặp gỡ các sĩ quan tình báo Anh trên các tàu của Hải quân Hoàng gia Anh, cho đến giữa năm 1942, Robin đã trở thành một những điệp viên trọng yếu nhất của cơ quan mật vụ Anh tại nước Pháp bị chiếm. Cao ráo và hào hoa phong nhã, ông vào vai một người dân Alsace có quan điểm thân phát xít lộ liễu và có thể gia nhập bất kỳ nhóm người Đức nào ở Paris bị chiếm đóng. Một trong các sĩ quan Đức có ấn tượng bởi mái tóc sáng và đôi mắt đầy biểu cảm của Robin đã nói với ông rằng ông gần như là một “người Aria chân chính” hoàn hảo theo các chuẩn mực của quốc trưởng.

Đầu mùa hè năm 1942, Robin đã làm quen với đại uý Danneker, đại diện của Adolf Eichmann ((Karl) Adolf Eichmann (1906-62), tên quốc xã phụ trách thực hiện cái gọi là "giải pháp cuối cùng cho vấn đề người Do Thái" sát hại hàng triệu người Do Thái trong Thế chiến II. Tên tội phạm chiến tranh này chạy trốn sau khi chiến tranh kết thúc, năm 1962 bị các điệp viên Israel bắt giữ ở Argentina và đưa về Israel. Bị xử ở Jerusalem, bị kết án vì tội ác chống loài người tội và bị treo cổ năm 1962 - ND) tại Paris.

Trước đó mấy tuần, Reinhard Heydrich (Reinhard Tristan Eugen Heydrich (1904-1942), chỉ huy Cục An ninh SD (Sicherheitsdienst) và là phó của Heinrich Himmler, kẻ cầm đầu cảnh sát quốc xã; hắn đã chỉ huy cuộc tấn công vào đài phát thanh ở Gleitwitz (nay là Gliwice) tạo cớ cho quân Đức xâm lược Ba Lan. Hắn là kẻ tổ chức thực hiện giải pháp cuối cùng diệt chủng người Do Thái trong những năm 30-40, bị các du kích Tiệp Khắc phục kích giết chết năm 1942 - ND) đã ra lệnh cho Adolf Eichmann tổ chức thảm sát người Do Thái trên toàn châu Âu. Chính là với Danneker, Robin dưới tên giả là Jack Walther đến từ Strasbourg đã bắt đầu một công việc tối nguy hiểm nhằm cứu thoát cộng đồng Do Thái Sephardi (Do Thái gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) ở Pháp khỏi bị thảm sát.

Những thành viên có học vấn cao, theo chủ nghĩa thế giới và thường là rất giàu của cộng đồng này là con cháu của những người Do Thái Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha di cư đến Pháp từ thời có toà án dị giáo ở Tây Ban Nha. Nhiều người trong số họ đã mất đi những đường nét của người Do Thái, họ không chỉ không theo tín ngưỡng của cha ông mà xét ở mọi mặt khác họ hoàn toàn không giống người Do Thái. Cũng vì vậy mà các lãnh tụ của họ đã khẩn cầu Robin, người mà theo họ biết là có quan hệ tốt với người Đức, dàn xếp các cuộc thương lượng để loại những người Do Thái Sephardi ra khỏi danh sách lưu đày và tiêu diệt của bọn quốc xã. Mặc dù cho đến khi đó thì Robin dã giảm bớt ít nhiều liên hệ với chính quyền chiếm đóng Đức, nhưng ông vẫn duy trì những quan hệ không chính thức với chúng. Chẳng hạn, thông qua cộng đồng lưu vong Nga trắng  (“Nga trắng” - cộng đồng Nga kiều lưu vong sau Cách mạng tháng Mười và Nội chiến ở Liên Xô - ND) ở Paris mà ông vốn có quan hệ hữu hảo với nhiều người trong đó, ông đã báo cho bọn Đức biết rằng, “những tên Do Thái đáng nguyền rủa” này có rất nhiều tiền và ám chỉ đến khả năng dễ dàng “xẻo được một miếng” trong đống tài sản khổng lồ này của họ chỉ bằng cái gạch bút đơn giản. Ông cũng trấn an chúng là sẽ không ai ở Berlin có thể biết được điều này.

Bọn Đức hiểu mọi ám chỉ ấy và cắn câu, nhưng trước khi đồng ý, chúng đã thực hiện những cuộc mặc cả dai dẳng bằng những lập luận triết học giả hiệu với những trích dẫn Kant và Goethe và những chai Cognac trên bàn.

Cuối cùng, chúng đã quyết định, để đổi lấy 1 triệu đô la gửi vào tài khoản bí mật trong một nhà băng Thuỵ Sĩ, các quan chức chiếm đóng Đức sẽ kiềm chế tình cảm bài Do Thái của mình và làm mọi việc để tất cả những người Do Thái Sephardi ở Pháp sẽ được coi như người Pháp và sẽ nhận được giấy tờ tuỳ thân thông thường của Pháp, trong đó không có những ghi chú về nguồn gốc Do Thái của họ.

Nhưng sau đó, có kẻ nào đó đã để lộ chuyện. SD đã đánh hơi thấy vụ áp phe này và các cuộc thương lượng đột ngột bị đứt đoạn. Nhưng đến lúc đó, “mein lieber ger Walther von Straßburg” (nghĩa là ông bạn Walther quý mến đến từ Strasbourg) đã trở thành nhân vật đáng kính trọng trong các giới quyền thế Đức, kể cả trong lực lượng SS, và được coi là con người rất có lợi khi được làm quen.

Ông tiếp tục nhận được những lời mời đến những ngôi nhà uy thế nhất trong cộng đồng Nga trắng. Tại những cuộc gặp ấy thường có những khách danh dự là những quan chức cao cấp nhất của chính quyền chiếm đóng Đức. Tại một trong những buổi tiếp đó, Robin đã mở được một “quan hệ chiếm đóng” quan trọng. Khi đi từ nhóm khách này sang nhóm khách khác, ông tình cờ bắt chuyện với một người Đức đậm người, trung tuổi trong bộ thường phục may rất khéo. Người ta giới thiệu ông khách đó là “đại diện cao cấp của Bộ trưởng đế chế Đức Schpeer”. Không nói một lời về vị thế cao cả của mình, vị khách Đức kể rằng, hắn chỉ mới sang Pháp và vẫn còn chưa được nếm mùi vị mê ly ở đất Paris bị chiếm đóng.

Khi biết Robin đã sống lâu ở thủ đô Pháp, vị khách Đức bắt đầu hỏi han về những địa điểm có thể giải trí. Hắn cười và thú nhận là rất khoái “giành thời gian để được uống rượu ngon và có nhiều gái đẹp”. Robin hiểu ngay đây chính là người Đức mà ông cần nên ông đề nghị ngay: “Thế tại sao ta không bắt đầu ngay từ hôm nay? Tôi thì hiện đang rảnh rỗi, nên ta hãy lượn xe làm quen với Paris ngay sau bữa tiệc này”.

Vị khách Đức khoái quá. Một lúc sau, hai người đàn ông tách khỏi bạn bè và rút khỏi buổi tiệc của cộng đồng Nga trắng để làm một vòng qua các tửu điếm và quán bar ở khu Elisée. Khi họ đã ngồi vào quán thứ ba, vị khách Đức bí mật cho Robin biết: “Đây đúng là cái tôi muốn. Tôi thật sự cảm ơn anh, Walther thân mến của tôi. Tôi nghĩ anh sẽ làm cho thời gian sống ở Paris của tôi trở nên rất mê ly”.

Mặc dầu vị khách Đức tỏ ra rất thận trọng trước mặt người mới quen biết, Robin vẫn nhận thấy người bạn đường của mình tay cầm không vững ly rượu mùi. Gã người Đức đã hỏi ngay xem Robin có thể tiễn ông ta về nhà không. Trên chiếc Mercedes sang trọng với tên tài xế của đơn vị SS thuộc bộ tham mưu Đức đã đưa họ đi khắp các quán bar, họ đã về tới khách sạn Royal Monceau nơi tên Đức trú ngụ. Khi chia tay, hắn nói: “Walther thân mến, buổi tối hôm nay thật tuyệt vời. Lần sau, anh có thể bớt chút thời gian cho tôi không?”

Hiểu rằng gã này có thể có lợi cho mình, Robin đã đồng ý. Họ hẹn gặp nhau tại khách sạn sau hai ngày nữa. Tên Đức bảo Robin dùng xe ôtô của hắn nhưng Robin cũng khá tinh ranh, ông chẳng muốn người Đức nào biết thực sự mình là ai và sống ở đâu. Ông nói ông thích đi dạo để hít thở không khí trong lành trước khi đi ngủ. Dọc đường về nhà, ông đã nghĩ cách để tận dụng mối quen biết mới này.

Robin biết rằng, tên bộ trưởng đế chế Schpeer là một kiến trúc sư trẻ tài năng đã thu hút được sự chú ý của Hitler khi thiết kế toà nhà đế chế mới và sau đó đã trở thành bộ trưởng công nghiệp và đạn dược. Một giáo sư cao cấp của bộ này hiển nhiên là một chuyên gia quan trọng có quyền tiếp cận tới những thông tin mà Robin có thể quan tâm với tư cách một điệp viên Anh và một người tham gia phong trào kháng chiến.

Ban đầu, ông suy nghĩ rất lâu về vấn đề có nên tìm cho tên Đức một cô “bạn gái” hay là chỉ đơn độc hành động trong mạo hiểm và sợ hãi? Robin tin chắc sẽ tìm được một cô gái Pháp quyến rũ và có tinh thần yêu nước, người sẽ sẵn sàng hy sinh bản thân, trở thành người tình của tên giáo sư kia để phục vụ cho lợi ích của tổ chức kháng chiến bí mật. Nhưng trong trường hợp này, phải hiểu rằng, sử dụng cô gái cũng có nghĩa là sẽ nhận được những thông tin rối rắm qua một “bộ lọc” không tin cậy lắm. Hơn nữa, giống như nhiều điệp viên tình báo lỗi lạc khác, Robin dù sao cũng không hoàn toàn tin tưởng ở các nữ gián điệp.

Mặt khác, nếu bản thân ông giành được sự tín nhiệm của tên Đức đó thì thành quả có thể là rất to lớn.

Ngay chiều tối hôm sau, Walther với dáng dấp một kẻ du đãng lịch sự thân phát xít bước vào khách sạn Royal Monceau nơi ông ta được vị giáo sư Đức vui mừng chào đón và điều làm Robin sửng sốt là hắn lại mặc bộ quân phục sĩ quan SS may rất đẹp. Nhận thấy sự kinh ngạc của Robin, tên Đức giải thích: “Bạn Walther thân mến, tôi thực ra là một quan chức dân sự, một giáo sư, chuyên gia về xây dựng công trình dân sự. Nhưng với cương vị cao trong bộ, theo chức trách của mình, tôi phải mặc quân phục mặc dù tôi căm ghét nó. Nếu anh tha lỗi, tôi muốn được thay sang thường phục vì tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn nhiều”.

“Tất nhiên rồi, mein führer (thủ lĩnh của tôi, tiếng Đức). Vì anh là standartenführer (một cấp quân hàm sĩ quan SS) nên từ giây phút này trở đi anh là mein führer đối với tôi” - Robin châm chọc đùa hắn. Và cũng từ đó trở đi, Robin gọi suồng sã người bạn Đức đó đúng như thế.

Mấy phút sau, tên Đức trở lại trong bộ thường phục và đôi bạn nhỏ lên đường du hý. Đêm ấy thật là sôi động. Ba giờ đêm, Robin lặng lẽ né tránh để khỏi phải nốc rượu và hài lòng nhận thấy tên Đức uống đã đến độ say. Ông kéo tên standartenführer khỏi đám gái đang chèo kéo hai vị khách sộp ở lại tới sáng, và đưa hắn ra chiếc xe của bộ tham mưu Đức mà trên đó gã tài xế đã ngủ ngon được mấy giờ. Mấy phút sau, họ đã có mặt ở khách sạn.

Đến lúc đó, tên Đức đã gần như bất tỉnh và Robin nói với gã tài xế: “Đừng lo, cậu bé, tôi sẽ đưa ông ấy về phòng và đặt lên giường cho”. Ôm ngang hông ông bạn lực lưỡng của mình, với sự trợ giúp của người trực đêm, Robin lôi được gã người Đức đến thang máy, sau đó là lôi hắn vào phòng trọ trên tầng bốn.

Sau khi nói với người trực: “Tôi sẽ tự lo cho ông ta”, Robin lôi gã người Đức trong trạng thái mê man vào phòng và quẳng hắn lên giường. Sau đó, ông nhanh chóng lục soát căn phòng và bắt gặp một chiếc xà cột dã chiến dày cộp nằm trên bàn viết. Trong khi “ông bạn” của ông đang ngáy pho pho và lảm nhảm cái gì đó trong mơ thì Robin xem xét kỹ lưỡng những thứ chứa trong chiếc túi.

Qua các tài liệu mà nhiều trong số đó có đóng dấu “Mật”, Robin hiểu rằng, người bạn mới của mình đúng là phái viên đặc biệt của bộ trưởng đế chế Schpeer ở Pháp. Và mặc dầu thông tin trong những tài liệu này không quá giật gân nhưng Robin cũng đã phát hiện ra một số chi tiết của những hợp đồng đặt hàng quan trọng ký với các nhà máy ở Pháp, những hợp đồng mà ông tin chắc là Không quân Hoàng gia Anh rất quan tâm.

Sau khi ghi nhớ tất cả những gì có thể, Robin hiểu rằng mình đã không lãng phí thời gian vô ích. Ông đã vớ được một nguồn tin cực kỳ có giá trị. Robin chỉnh lại tư thế nằm của tên Đức cho thoải mái hơn rồi ra về sau khi đã để lại mẩu giấy nhắn hẹn hai ngày sau gặp lại. Sáng hôm sau, Robin đã mã hoá tất cả những tin tức thu được và gửi về London.

Theo lời hẹn với tên Đức ghi trong mẩu giấy, Jack Walther lại nhanh chóng xuất hiện trước mặt hắn trong căn phòng khách sạn Royal Monceau và một lần nữa nhận được sự tiếp đón ân cần nhất.

“Cảm ơn anh, cảm ơn anh, bạn Walther thân thiết của tôi, - xiết chặt tay Robin, gã người Đức thốt lên - anh là người bạn chân chính của tôi. Anh không chỉ giới thiệu thành phố với tôi mà cả khi tôi đã quá say xỉn, anh đã chở tôi về nhà và đưa lên giường ngủ. Đây là tình bạn thực sự”. Sau đó, hắn ranh mãnh nhìn Robin và nói tiếp: “Anh biết không, thực ra anh giống người Đức hơn là người Pháp. Với đôi mắt xanh, mái tóc sáng, chiều cao và thể hình cân đối ấy của anh, anh đã chứng minh cái mà quốc trưởng luôn nói với chúng tôi: Người Alsace, cũng như chúng ta, đều là những người Đức chân chính”.

Robin gật gù nghĩ bụng không hiểu “ông bạn” SS của mình sẽ nói gì nếu gã biết anh bạn Aria chân chính đến từ Strasbourg của hắn thực ra lại là một người Do Thái. Và một lần nữa họ lại kéo nhau đi một vòng quanh các tửu điếm, quán bar của Paris.

Tại một quán bar, gã người Đức bỗng kể về mình. Robin đã biết gã người Đức này xuất thân từ vùng Đông Phổ. Hắn là một giáo sư, có bằng kỹ sư. Vừa cười, gã người Đức vừa đọc cho Robin nghe chức danh đầy đủ của hắn: Standartenführer SS, giáo sư, tiến sĩ”. Hắn được tuyển vào Bộ công nghiệp và đạn dược làm kỹ sư cao cấp. Bộ trưởng đế chế Schpeer cử hắn tới Paris với tư cách là phái viên đặc biệt.

Sau đó thì mọi chuyện lại diễn ra theo kịch bản quen thuộc. Rượu Cognac và sâmpanh đã làm công việc của mình và cũng như lần trước, Robin dẫn gã người Đức say khướt về nhà và lại chăm chú đọc những giấy tờ của hắn.

Từ đó, Robin và “anh bạn chí thân” của mình trở thành đôi bạn luôn cặp kè với nhau. Hai hoặc ba lần một tuần, họ tổ chức các chè chén lu bù mà kết quả của chúng luôn làm vui lòng cả tổ chức kháng chiến bí mật ở Paris lẫn chỉ huy tình báo Anh ở London. Và kết quả trực tiếp của nó là sự gia tăng đột biến trong những tháng tiếp sau đó những vụ phá hoại ngầm tại những nhà máy, công xưởng quan trọng nhất ở Pháp đang làm việc cho bọn Đức.

Đến giữa tháng 10, Robin đã cảm thấy mình hoàn toàn thoải mái trong căn phòng khách sạn của gã bạn Đức. Hơn nữa, nhân viên khách sạn Royal Monceau đã xem ông như là một nhân viên của quý ngài giáo sư. Một lần, vào buổi chiều, Robin nhận thấy gã bạn có vẻ hơi lo lắng và trái với lệ thường, hắn lại nói chuyện về chiến tranh. Khi họ ngồi trong câu lạc bộ ban đêm ở Montparnas cùng một đám gái, gã người Đức bắt đầu nói về Rommel (Erwin Rommel (1891-1944), Thống chế Đức phát xít, Tư lệnh Quân đoàn châu Phi (Afrika Korps), có biệt danh "Cáo sa mạc", nổi danh với những chiến thắng trên sa mạc Phi châu trong Thế chiến II. Bị buộc tội đồng loã trong vụ mưu sát Hitler vào tháng 7/1944, Rommel đã uống thuốc độc tự sát để khỏi phải ra toà - ND) và Quân đoàn châu Phi, cũng như về các chiến dịch sắp tới trên Địa Trung Hải.

Bề ngoài, Robin tỏ ra chẳng hề quan tâm đến chuyện này, nhưng ngay trong đêm đó, sau khi đưa tên Đức vẫn say mềm như mọi khi vào giường ngủ, ông cực kỳ chăm chú xem hết tài liệu để trên bàn của tên schtandartenführer. Và ở đó, trong một cặp tài liệu, ông phát hiện được một lá thư gửi từ Berlin. Bức thư này, không còn nghi ngờ gì nữa, đã được một quan chức cao cấp trong bộ của Schpeer gửi đến, mà không chừng có thể chính là Schpeer. Nội dung bức thư liên quan đến những chiến dịch ở Bắc Phi. Trong thư viết rằng, các phụ tùng cho xe tăng Đức chế tạo tại các nhà máy Pháp hiện có tầm quan trọng hàng đầu đối với mặt trận Bắc Phi. Sau mấy ngày nữa, chúng phải được gửi từ Nam Italia đi cùng với một đoàn hộ tống Italia. Robin không nghi ngờ gì về tầm quan trọng của tin tức mà ông đọc được. Ngay sáng hôm đó, ông gửi một bức điện mật mã về London: “Tối khẩn. Đoàn hộ tống xuất phát từ Brindizi ở Bengazi khoảng gần ngày 20 tháng 10”.

Ngày 23 tháng 10, Trung tướng, Sir Bernard Montgomery (Bernard Law Montgomery, Đệ nhất tử tước, Thống chế Montgomery Al 'Alamayn (1887-1976), danh tướng Anh kiệt xuất trong Thế chiến II, nguyên tư lệnh quân Anh ở châu Phi đối địch và chiến thắng Thống chế Erwin Rommel và Quân đoàn châu Phi của Đức; nguyên tư lệnh quân Anh ở mặt trận phía Tây, dưới quyền Tư lệnh tối cao quân đồng minh là tướng Dwight D. Eisenhower - ND), người mới được bổ nhiệm làm Tư lệnh Tập đoàn quân số 8 của Anh, đã có mặt ở El 'Alamein. Rommel đang nằm viện ở gần Viena, theo lệnh trực tiếp từ Hitler, đã bay trở lại mặt trận sau khi chỉ huy phó của hắn là von Thomas bị quân Anh bắt làm tù binh. Chiến sự diễn ra ở thế giằng co khi Montgomery cố chọc thủng phòng tuyến Đức.

Đối với Rommel thì bây giờ mọi sự đều phụ thuộc vào sự tiếp tế vũ khí, đạn dược và nhiên liệu. Trong khoảng ngày 26 và 28 tháng 10 khi kết cục chiến sự vẫn còn chưa rõ ràng, Không quân Anh đóng ở Malta đã oanh kích đoàn côngvoa của bọn phát xít, chính “đoàn côngvoa của Robin”. Các tàu biển chở đạn dược và 3 tàu chở dầu đã bị đánh đắm. Rommel chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt đầu cuộc rút lui mà cuối cùng đã dẫn hắn đến mũi Bon và sự đầu hàng của Quân đoàn châu Phi.

Tuy nhiên, Robin vẫn tiếp tục mải mê dẫn ông bạn Đức của mình đi khắp các quán bar và câu lạc bộ ban đêm của Paris và chả hề hay biết gì về việc đánh đắm những con tàu và tàu chở dầu đó. Phải nhiều năm sau, sau khi chiến tranh đã kết thúc, ông mới biết thành quả của công việc đọc lén tài liệu để trong túi, trong xà cột, trên bàn của ông bạn standartenführer Đức của mình.

Tuy tức giận vì những tổn thất nặng nề nhưng bọn Đức không thể ngờ rằng, những thông tin cực kỳ quý giá đối với tình báo Anh lại được lấy từ một sĩ quan SS cao cấp, kẻ luôn vui vẻ giết thời gian cùng với người bạn chí thân, tốt bụng Walther đến từ Strasbourg.

Những đêm dài ăn chơi hào hứng, miệt mài cứ tiếp diễn như vậy cho đến cuối năm 1942. Đến lúc đó, Robin đã giống như một bóng ma vì luôn thiếu ngủ và uống rượu, thứ mà dù áp dụng đủ mánh khoé, ông vẫn phải uống để khỏi thua kém ông bạn của mình.

Cuộc tiến công của đồng minh ở Bắc Phi mở màn vào ngày 8 tháng 11, và quân đội của Eisenhower (Dwight David Eisenhower (1890-1969), nguyên Tư lệnh tối cao quân đồng minh ở châu Âu trong Thế chiến II và Tư lệnh tối cao đầu tiên của quân đội NATO; Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ - ND) đang tiến tới Tunis (thủ đô Tunisia). Một lần vào buổi chiều khi Robin đang ở chỗ gã bạn Đức thì nghe hắn nói: “Đừng lo, anh bạn của tôi... đừng buồn vì tình thế của chúng ta ở Bắc Phi. Những thắng lợi tạm thời của bọn Anh, Mỹ đáng nguyền rủa không đáng sợ lắm đâu. Chúng ta, những người Đức, thừa thông minh đối phó với bọn khoác lác ấy. Anh hãy chờ một chút nữa và anh sẽ thấy... Chúng ta vẫn có cái để chống lại chúng”. Ngay lúc đó, tên Đức vỗ vào túi trong chiếc áo cổ đứng kitel của hắn rồi nói tiếp: “Ở đây, tôi có một cái gì đó. Tôi không thể nói rõ hơn, nhưng đó là cái do thiên tài siêu đẳng Đức sáng tạo ra. Anh hãy chờ vài tháng và lúc đó anh sẽ tự hiểu điều tôi vừa nói”.

Tên Đức còn ám chỉ rằng, tài liệu của hắn quan trọng đến nỗi hắn luôn phải giữ trong người. Chính vì thế mà hắn sẽ mặc quân phục khi ghé chơi các tửu điếm và quán bar. Như mọi khi, Robin chỉ cười và chẳng nói gì. Ông quyết định đêm đó không được uống nhiều. Ông cần phải đưa gã người Đức lên giường như mọi khi và tìm hiểu cái nằm trong túi hắn. Bởi vậy, khi đi cùng gã người Đức đi khắp các quán bar, ông phải luôn khăng khăng nói là hôm nay ông có vấn đề với dạ dày nên không thể uống như mọi khi. “Chà, bực quá đi mất, anh bạn đáng thương của tôi ơi, vậy mà tôi thì lại muốn ăn mừng với anh về tầm quan trọng của cái nằm trong túi tôi, - tên sĩ quan SS nói. - Thôi được, tôi sẽ uống cái mà anh không uống được...”. Robin tỉnh táo quan sát để làm sao chiếc ly của tên Đức trong buổi tối đó phải luôn đầy. Nhưng tên Đức rất lâu bị say. Phải đến 6 giờ sáng của buổi sáng tháng 12 lạnh lẽo, mù sương ấy thì cuối cùng Robin mới cảm thấy tên Đức đã uống đủ say và có thể đưa hắn về nhà.

Như mọi khi, chiếc Mercedes với gã tài xế mệt mỏi ngái ngủ đã đợi họ ở cửa. Còn tại khách sạn, các nhân viên bình thản xem vở kịch quen thuộc. Robin cẩn thận đưa bạn mình lên giường. Nhưng tên Đức lại có vẻ bồn chồn. Thay vì ngáy khò khò như mọi lần, lần này hắn lại không thể chợp mắt được.

Lúc Robin cởi chiếc áo cổ đứng ra khỏi người tên Đức, hắn gần như đã ngủ mà miệng còn lảm nhẩm: “Hãy cứ để nguyên, cứ để nguyên, tôi sẽ ngủ để nguyên quần áo”.

Dường như là dù đã uống xỉn đến mức không biết trời đất gì nữa thì tên Đức vẫn có cảm giác mang tính bản năng là Robin đang thò tay vào túi áo trong của hắn. Nhưng cuối cùng thì hắn cũng chìm vào giấc ngủ say sưa và Robin nín thở một lần nữa thọc tay vào túi chiếc cổ đứng đã mở cúc dở. Tên Đức cựa quậy. Xem chừng hắn tỉnh dậy ngay bây giờ. Hắn thởi phì và nặng nề trở mình đè người lên tay Robin nhưng ông vẫn kịp dùng mấy ngón tay móc ra chiếc phong bì và từ từ rút tay ra khỏi túi và khỏi thân mình tên Đức.

Gã người Đức đã ngủ. Robin bước sang phòng bên, mở phong bì lấy ra mấy tờ giấy. Ngay trên đầu mấy tờ giấy, Robin nhìn thấy có dấu độ mật cao nhất của bọn Đức: “Tuyệt mật.... Bí mật quốc gia của đế chế”. Dấu mật này có nghĩa là chỉ Hitler và đám người thân cận nhất của hắn được quyền đọc tài liệu này. Tài liệu do chính Schpeer ký. Tên bộ trưởng đế chế này thông báo cho tên standartenführer này biết rằng, sau các cuộc thử nghiệm thành công ở Peremünd trong khuôn khổ hai dự án tuyệt mật, quốc trưởng ra lệnh chuẩn bị tiến hành xây dựng các công trình tại các vùng duyên hải ở miền Bắc nước Pháp.

Các công trình được đề cập trong thư giống như các hầm trú ẩn cho tàu ngầm với mái bê tông rất dày.

Toàn bộ công tác chuẩn bị sơ bộ cho công trình mới mà tên standartenführer này đã biết trước, phải được hoàn thành cấp tốc để việc xây dựng tuyệt mật này có thể được bắt đầu vào bất kỳ lúc nào khi có lệnh của quốc trưởng.

Trong thư không có một chữ nói cho biết hai dự án thử nghiệm là gì và phải xây dựng các công trình bê tông dọc bờ biển Bắc Pháp là để làm gì. Đến lúc đó, Robin vẫn chưa hề nghe thấy ai nói gì về Peremünd. Nhưng rõ ràng ông đang gặp phải cái gì đó đặc biệt quan trọng. Ông cố ghi nhớ nội dung bức thư và trở lại phòng ngủ.

Tên Đức cứ trở mình hết bên nọ sang bên kia. Nhưng Robin cũng vẫn nhét được bức thư trở lại vào túi hắn. Sau khi làm xong, xúc động và hồi hộp, ông ra khỏi căn phòng khách sạn.

Vậy thì ông đã phát hiện ra cái gì? Có lẽ chỉ bản thân Hitler và những tay chân thân tín nhất của hắn mới biết bức thư nói về cái gì. “Các vùng duyên hải ở miền Bắc nước Pháp” - điều đó có thể có nghĩa là bọn Đức đang chuẩn bị một cuộc tiến công bí mật cực kỳ bất ngờ vào nước Anh... mà có thể là một đòn đánh mới vào thành phố London. Xem trong cuốn sổ tay địa lý nước Đức, Robin mới biết Peremünd nằm hơi chếch phía Tây Schtettin trên bờ biển Meklenburg, nơi có con sông nhỏ Pene đổ vào biển Baltic. Bọn Hitler đang thực hiện dự án gì ở đó mà lại cần đến những công trình xây dựng lớn dọc eo biển Măngsơ nhỉ?

Quay lại thời gian trước, chúng ta nhớ lại vào tháng 10 năm 1948 khi xuất hiện bản báo cáo chính thức của Thống chế không quân Anh Sir Roderick Hill về các chiến dịch không quân nhằm bảo vệ nước Anh. Trong đó có viết:

“Việc bọn Đức chuẩn bị sử dụng tên lửa tầm xa vào mục đích quân sự lần đầu tiên đã được đề cập đến trong một báo cáo mà chúng ta nhận được ngay đầu chiến tranh. Sau đó, vào cuối năm 1942, trong các báo cáo của các điệp viên có nói rằng, trên bờ biển Baltic, các tên lửa đó đã được phóng thử. Vào đầu năm 1943, việc liên lạc với trạm thử nghiệm Đức ở Peremünd đã được thiết lập”.

Trên thực tế, chính quyền Anh lần đầu tiên được biết về hoạt động nghiên cứu phát triển tên lửa qua bản báo cáo được gọi là báo cáo Oslo mà cơ quan tình báo Anh nhận được vào năm 1939. Tháng 5 năm 1942, trong một chuyến bay do thám các tàu chiến đậu ở Kiel và căn cứ hải quân ở Swinemünd, một máy bay trinh sát của Không quân Anh đã bay qua bờ biển Meklenburg. Viên phi công đã chụp được những mục tiêu được mô tả là “những vòng tròn lớn” ở Peremünd. Và mặc dù bản báo cáo của viên phi công đã được đưa qua tất cả các phòng hữu quan nhưng họ không xác định được điều gì và chẳng có biện pháp đối phó nào được áp dụng.

Quả tên lửa Faw-2 (còn gọi là V-2 - tên lửa đường đạn đầu tiên thế giới, cùng với Faw-1 (V-1) - tên lửa hành trình đầu tiên trên thế giới là những “Vũ khí phục thù” (Vergeltungswaffe) của phát xít Đức, được sử dụng lần đầu tiên để chống nước Anh trong những năm 1944-1945 - ND) đầu tiên, trước đó Hitler đã gọi là “Vũ khí phục thù” (Vergeltungswaffe) đã được tướng Dornbeger và Werner von Braun  (Wernher von Braun (1912-1977), công trình sư tên lửa nổi tiếng của Đức và Mỹ, nguyên Giám đốc chương trình nghiên cứu tên lửa của Đức và phụ trách thiết kế tên lửa tầm xa nhiên liệu lỏng V-2, cũng như đóng góp lớn vào sự phát triển của ngành kỹ thuật tên lửa-vũ trụ của Mỹ sau này - ND) cho phóng vào tháng 10 năm 1942. Cũng khoảng thời gian đó, ở Peremünd, bọn Đức đã hoàn thành việc thiết kế mẫu tên lửa F-103. Đến cuối mùa Thu năm 1942, các điệp viên Anh ở hai bờ biển Baltic đã gửi những báo cáo thường xuyên về hoạt động chế tạo vũ khí tầm xa của bọn Đức.

Các chuyên gia tình báo chuyên về các vấn đề kỹ thuật ở Bộ Chiến tranh Anh ở London từ lâu đã biết những nghiên cứu mà bọn Đức tiến hành trên bờ biển Baltic. Ban đầu, họ cho rằng, ở đó bọn Đức đang phát triển đạn pháo hạng nặng. Và chỉ nhờ vào bản báo cáo về những công trình bê tông dọc theo bờ biển Măngsơ trong đó cũng đề cập đến những nghiên cứu ở Peremünd, Robin đã trao cho người Anh chiếc chìa khoá để khám phá ý đồ oanh tạc London của bọn Đức.

Điều đó đã thúc đẩy người Anh nghiên cứu kỹ lưỡng các báo cáo của cả các điệp viên khác trong thời gian mấy tháng gần nhất và việc đó lại dẫn đến những bức ảnh chụp tháng 5 năm trước. Tiếp ngay sau đó là mệnh lệnh cho các phi công trinh sát của Anh chuyển trọng tâm chú ý sang địa danh Peremünd.

Những bức ảnh được chụp ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác đều được phân tích kỹ lưỡng. Một thời gian sau, trong một chuyến bay trinh sát như vậy, viên phi công đã phát hiện được một đường băng cất-hạ cánh, còn trên đó là một quả tên lửa Faw-1. Cũng trong khoảng thời gian đó, các thành viên của tổ chức bí mật của lực lượng kháng chiến Pháp tại vùng bờ biển Măngsơ đã phát hiện được một cấu trúc bê tông khổng lồ do quân Đức xây dựng ở gần Batten.

Bản thân Robin, vào đầu năm 1943, cũng tiếp tục điều tra theo hướng tin được mở lại. Ông đã hạ lệnh cho tất cả các nhóm kháng chiến bí mật Pháp thuộc quyền tìm hiểu toàn diện về hoạt động xây dựng bí mật. Từ miền Đông Pháp, ông nhận được một báo cáo của một điệp viên mới sinh sống trên biên giới Đức-Bỉ. Là một người Đức, anh ta đang tại ngũ trong Wehrmacht (Quân đội Đức phát xít) và năm 1942 đang cùng đơn vị đóng tại khu vực bờ biển Baltic và cũng ở đó anh ta đã trông thấy một vụ phóng tên lửa. Không lâu sau đó, anh ta bị điều sang Pháp, ở đó anh ta lập tức đào ngũ và gia nhập hàng ngũ các chiến sĩ chống phát xít hoạt động bí mật.

Một thời gian sau lần ông lục lọi túi của viên kỹ sư Đức, Robin lại xuất hiện ở khách sạn Royal Monceau. Lần này, chào đón ông là những “tin buồn”.

“Bạn thân mến, - gã người Đức nói - tôi nói để anh biết tôi đang làm một nhiệm vụ rất quan trọng. Sẽ có lệnh từ Berlin và tôi phải tới miền Bắc Pháp công tác. Có lẽ tôi sẽ vắng mặt ở Paris trong vòng một hoặc hai tuần. Nhưng ngay khi tôi trở về, chúng ta nhất định sẽ gặp nhau”.

Từ hôm đó, Robin không còn bao giờ gặp lại tên schtandartenführer ấy nữa. Đến đầu năm 1943, khi mà theo tính toán của ông, tên Đức kia đã phải có mặt ở Paris thì Robin bỗng nghi là bọn phản gián quốc xã đóng trên đại lộ Foch đã bắt đầu quan tâm đến quý ngài Walther đến từ Strasbourg.

Đến lúc đó, ngoài “tình bạn” với phái viên của Schpeer, Robin còn hợp tác với nhóm kháng chiến do đại tá Moris Bookmaster chỉ đạo từ London. Các chiến sĩ của nhóm này đã mở két sắt của ban quân quản vận tải quân sự ở Salonsur-marne. Trong két sắt này, họ đã tìm thấy và chụp lại lịch trình chạy tàu trên đường sắt của Bỉ và Bắc Pháp.

Đối với các đơn vị du kích kháng chiến và các cơ quan tình báo Anh được họ cung cấp tin, lịch trình chạy tàu này cũng là lịch trình phá hoại và đánh bom các đoàn tàu hoả chở hàng của quân Đức. Robin tiếp tục thu thập tin tức về lịch trình chuyên chở các đơn vị quân Đức cho đến khi bọn phản gián Đức lần ra (cho đến nay vẫn chưa rõ điều này đã xảy ra như thế nào) dấu vết của ông. Đến mùa Hè năm 1943, ông đã phát hiện mình bị “bám đuôi” và Robin buộc phải chạy về tổ quốc Thuỵ Sĩ. Ở đó, ông vào làm cho phái bộ ngoại giao Anh ở Bern và kết thúc chiến tranh với quân hàm trung tá, chỉ huy một nhóm kháng chiến Pháp, thường xuyên di chuyển từ nhà mình ở Lozanne về Pháp băng qua biên giới Pháp.

Vào cuối năm 1944, cảnh sát Thuỵ Sĩ bắt giữ ông và đưa ra lời cáo buộc ông vi phạm quy chế trung lập của Thuỵ Sĩ. Sau khi bị thẩm vấn, ông đã được tạm thả có bảo lãnh và ông tiếp tục phục vụ với tư cách một sĩ quan của quân đội đồng minh. Nước Thuỵ sĩ trung lập về hình thức, nhưng thực chất là thân đồng minh, liên tục trì hoãn phiên toà xử Robin và trùng trình mãi cho đến khi chiến tranh kết thúc. Ông bị tuyên là phạm tội có “những vi phạm mang tính kỹ thuật” đối với quy chế trung lập của Thuỵ Sĩ, nhưng ông được miễn tội gây tổn hại những lợi ích của nước này.

Để biểu lộ thái độ thực sự của mình đối với Robin, cả 5 thẩm phán quân sự Thuỵ Sĩ đều mang cấp bậc đại tá, những người xét xử vụ án của ông (còn ông thì đòi việc xử ông phải là do những sĩ quan cùng cấp với ông tiến hành), khi kết thúc phiên toà đã rời khỏi chỗ ngồi và đứng xếp hàng tại chỗ thường giành cho các luật sư bào chữa ở ngay trước mặt Robin và vui mừng bắt tay ông. Một trong số họ thì thào: “Ngài hiểu cho, thưa monsieur (ông), chúng tôi chỉ thực hiện bổn phận của những sĩ quan Thuỵ Sĩ, nhưng với tư cách những người Thuỵ Sĩ tự do, chúng tôi tự hào về ngài”.

Trong những năm 50, Robin lại trở thành lãnh đạo của một hãng thương mại ở ngay tại trung tâm Paris. Vào năm 1957, khi Nữ hoàng Elizabeth II đến thăm Paris, ông đã là một trong số ít những người lãnh đạo phong trào kháng chiến cũ được giới thiệu với bà.

Lần đề cập đến Robin cuối cùng, chúng ta còn gặp ở một vị anh hùng kháng chiến khác - đại uý Peter Churchill. Ông đã viết:

“Chẳng có mấy người hy vọng có thể cạnh tranh với Robin về những công việc tuyệt vời mà ông đã làm. Ông chính là một David của thế kỷ này, người đã dùng trí thông minh và sự cương quyết của mình chống lại Goliath là tên khổng lồ Đức quốc xã. Một lần, tướng Eisenhower đã nói rằng, hoạt động của lực lượng kháng chiến Pháp đã giúp rút ngắn nửa năm chiến tranh ở châu Âu. Theo tôi, Robin có quyền nói rằng, sự thừa nhận ấy đối với những công lao của phong trào kháng chiến Pháp mà trước hết cũng là giành cho chính ông và những người mà ông đã lãnh đạo”.

Chu Hà