In bài này
Lý Tự Tiên và Đinh Kiến
Thứ Tư, 21/10/2009 - 5:21 PM
"Vận trời còn chửa hanh thông / Nước non để hận anh hùng ngàn thu" - Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái (Đại Nam quốc sử diễn ca)

1. NHỮNG BIẾN CỐ CHÍNH TRỊ DỒN DẬP

Năm 571, sau khi lập mưu giết hại được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử đã nắm quyền thống trị toàn cõi. Tuy nhiên, đó chỉ là một chính quyền rất yếu kém và bạc nhược, trong thì không ban hành được một chính sách trị nước tích cực nào đáng kể, ngoài thì không thực hiện được một biện pháp hữu hiệu nào để phòng bị cho quốc gia. Đối với các tập đoàn phong kiến thống trị Trung Quốc, vấn đề xua quân sang xâm lược và tái thiết nền đô hộ nước ta chỉ còn là thời điểm cụ thể.

Chính quyền Lý Phật Tử sở dĩ tạm thời được ổn định trong khoảng hơn 30 năm (571-602) bất quá chỉ vì tình hình Trung Quốc lúc bấy giờ cũng chưa thật sự yên tĩnh. Năm 581 (tức là đúng 10 năm sau khi Triệu Việt Vương qua đời), Dương Kiên (541-604) (tức Tuỳ Văn đế hay Tuỳ Cao Tổ (581-604), hoàng đế khai sáng của nhà Tuỳ. Năm 604, Tuỳ Văn đế bị chính con trai mình là Dương Quảng giết hại để giành ngôi) đã xoá bỏ được cục diện Nam-Bắc triều của Trung Quốc và lập ra nhà Tuỳ (Nhà Tuỳ tồn tại trước sau tổng cộng 37 năm (581-618) và truyền nối được tất cả 3 đời. Kinh đô của nhà Tuỳ là Đại Hưng (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Trên danh nghĩa thì nhà Tuỳ đã thống nhất được Trung Quốc nhưng tiềm lực của nhà Tuỳ chưa mạnh, các cuộc chống đối nhà Tuỳ vẫn liên tục nổi lên.

Năm 590, để mở rộng và khẳng định quyền chi phối của mình ở Lĩnh Nam, nhà Tuỳ đã lập ra Phủ Tổng quản tại Quế Châu, giao chức Tổng quản cho nhân vật Linh Hồ Li đảm trách. Với chức vụ này, Linh Hồ Li có quyền uy rất lớn, được phép cắt đặt tất cả quan lại từ hàm Thứ sử trở xuống. Đây chính là bước chuẩn bị cho cuộc Nam chinh của nhà Tuỳ, cũng là mối đe doạ lớn nhất đối với độc lập và chủ quyền của nước Vạn Xuân. Bấy giờ, Lý Phật Tử tuy chưa từng đến Phủ Tổng quản để yết kiến, nhưng trên danh nghĩa công khai thì đã chịu thần phục Tổng quản Linh Hồ Li, tức là đã hoàn toàn chịu thần phục đối với triều đình nhà Tuỳ.

Đầu năm Nhâm Tuất (602), lấy cớ Lý Phật Tử không chịu vào chầu, triều đình nhà Tuỳ đã sai các tướng Lưu Phương và Kinh Đức Lượng (Theo ghi chép của Nguỵ Trưng (Trung Quốc) trong Tùy Thư (Súc Ấn Bách Nạp Bản, Thương Vụ ấn Thư Quán) thì Kinh Đức Lượng mới đi đến Doãn Châu (nay thuộc huyện Quảng Thông, Vân Nam, Trung Quốc) thì bị bệnh nặng nên không thể đi dược nữa. Toàn bộ lực lượng của nhà Tuỳ vì thế chỉ do Lưu Phương cầm đầu) đem khoảng 10 vạn quân (Theo ghi chép của Ngụy Trưng (Trung Quốc) - sách đã dẫn - thì nhà Tuỳ đã huy động đến 27 quân doanh. Dựa theo phiên chế của quân đội nhà Tuỳ, chúng ta có thể ước đoán là khoảng 10 vạn quân) đi đánh vạn xuân. Lý Phật Tử đã đầu hàng tướng Lưu Phương và lập tức bị Lưu Phương bắt về Trung Quốc. Ách đô hộ của nhà Tuỳ được thiết lập tại Vạn Xuân trong 16 năm (602-618).

Tháng 5 năm 617, một quyền thần của triều đình nhà Tuỳ là Lý Uyên (Ngay từ năm mới 16 tuổi (582), Lý Uyên dã được Tuỳ Cao Tổ phong làm Đường Quốc công. Thời Tuỳ Dưỡng đế (604-618), Lý Uyên vừa là Thứ sử Kỳ Châu, vừa là Thái thú của 2 quận Vinh Dương và Lâu Phiền. Năm 618, Lý Uyên phế truất ngôi hoàng đế mới lập của Dương Hựu (tức Tuỳ Cung đế) rồi lập ra nhà Đường) đã bất ngờ khởi binh chống lại nhà Tuỳ và đúng 1 năm sau (tháng 5 năm 618) thì chính Lý Uyên đã lật đổ được nhà Tuỳ và lập ra một triều đại mới của lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc là nhà Đường (618-907) (Nhà Đường tồn tại trước sau tổng cộng 289 năm (618-907), trong đó có 287 năm đô hộ nước ta (618-905). Nhà Đường truyền nối được 21 dời. Kinh đô của nhà Đường là Trường An, nay thuộc thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc). Ngay sau khi lật đổ nhà Tuỳ, nhà Đường đã thay nhà Tuỳ đô hộ nước ta. Năm 622 (tức là chỉ 4 năm sau khi lật đổ được nhà Tuỳ), Đường Cao Tổ (618- 626) (họ và tên thật là Lý Uyên - hoàng đế đầu tiên của nhà Đường) đã cho lập ra Giao Châu Đô hộ phủ (cơ quan cai trị lấy quân sự làm chỗ dựa chủ yếu nhất). Đến năm 679, Đường Cao Tông (649-683) đã cho đổi Giao Châu Đô hộ phủ thành An Nam Đô hộ phủ (Địa danh An Nam dùng để chỉ nước ta. Lúc này, An Nam Đô hộ phủ quản lãnh 12 châu vùng đồng bằng với tổng cộng 59 huyện, ngoài ra còn có 41 châu ki-mi (châu ràng buộc lỏng lẻo) ở vùng rừng núi và trung du), và gắn liền với quá trình thay đổi nói trên chính là quá trình không ngừng tăng cường ách áp bức bóc lột của phong kiến nhà Đường.

Bấy giờ, lợi dụng việc triều đình không thể nào kiểm soát hết dân tình ở tất cả những nơi xa xôi cách trở nên bọn quan lại đô hộ đã ra sức tìm cách vơ vét tài sản của nhân dân ta. Trong thế kỷ VII, Khâu Hoà (nguyên là Thái thú quận Giao Chỉ dưới thời nhà Tuỳ, sau đó được nhà Đường lưu dụng và cho giữ chức Giao Châu Đô hộ phủ. Ở Giao Châu Đô hộ phủ, Khâu Hoà là người đầu tiên được giữ chức này) và Lưu Diên Hựu (tên giữ chức An Nam Đô hộ phủ đầu tiên. Theo Âu Dương Tu và Tống Kỳ (Trung Quốc) trong Tân Đường Thư (Súc Ấn Bách Nạp Bản, Thương Vụ Ấn Thư Quán) thì Lưu Diên Hựu là người Bành Thành, thuộc Từ Châu (Trung Quốc), từng đỗ Tiến sĩ và được nhà Đường xếp vào loại có tài làm quan. Trước khi được bổ là quan đô hộ ở An Nam Đô hộ phủ, Lưu Diên Hựu là Thứ sử ở Cơ Châu, Trung Quốc) là 2 đại diện tiêu biểu cho lực lượng tham quan ô lại này. Vốn đã uất hận vì cảnh nước mất nhà tan lại phải chịu thêm nạn bị bọn quan quân đô hộ tước đoạt trắng trợn, dân khắp cõi đương thời ai ai cũng đều căm tức. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt và đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc vùng lên tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của bọn ngoại bang. Hai lãnh tụ cũng là hai danh tướng nổi tiếng nhất thế kỷ VII chính là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến.

2. HAI CON NGƯỜI, MỘT KHÍ PHÁCH

Thư tịch cổ đầu tiên của ta có chép đến hai nhân vật Lý Tự Tiên và Đinh Kiến là Đại Việt sử lược (Xin vui lòng tham khảo bản dịch của Nguyễn Gia Tường do Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính và viết lời bạt. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1992). Sau đó, các bộ chính sử quan trọng khác như Đại Việt sử ký toàn thư Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng đều có chép về hai nhân vật lịch sử này. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là tất cả những thư tịch cổ nói trên đều không hề cho biết năm sinh, năm mất cũng như quê quán của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến. Tuy nhiên, nếu góp nhặt những ghi chép tản mạn của các thư tịch cổ (của ta và của cả Trung Quốc) chúng ta cũng có thể sơ bộ phác hoạ được vài nét về sự nghiệp của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến như sau:

Bấy giờ, nhà Đường quy định rằng, dân di lão mỗi người chỉ phải đóng một nửa suất tô (Âu Dương Tu, Tống Kỳ. Tân Đường Thư. Sách đã dẫn. Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm: dân di lão nghĩa là dân già cả ở đất man di. Dân di lão cũng có khi được thư tịch cổ chép là người Lý. là phần sản phẩm nông nghiệp mà dân phải nộp nhiều ít tuỳ theo diện tích và sản lượng ruộng đất họ canh tác) nhưng Lưu Diên Hựu bắt phải đóng đủ một suất chứ không hề được miễn giảm. Tất nhiên, nửa suất tô mà dân di lão phải đóng thêm sẽ được nhập vào kho tài sản riêng của Lưu Diên Hựu. Hành vi tham lam bạo ngược này của Lưu Diên Hựu khiến cho nhân dân đương thời rất căm phẫn. Nhân lòng oán giận của nhân dân, Lý Tự Tiên đã ráo riết chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa lớn, nhưng rất tiếc là cơ mưu bị bại lộ. Lập tức, Lưu Diên Hựu sai quân đến bắt và giết chết Lý Tự Tiên với hy vọng là sẽ bóp nát hoàn toàn cuộc khởi nghĩa ngay trong thời kỳ trứng nước. Nhưng Lưu Diên Hưu đã nhầm. Lý Tự Tiên tuy không còn, song, Đinh Kiến đã kế tục xuất sắc sự nghiệp lớn còn dở dang của ông, kêu gọi nhân dân đồng lòng vùng lên, tấn công ồ ạt và bất ngờ vào phủ thành của Lưu Diên Hựu. Sử cũ viết rằng: “Dư đảng (của Lý Tự Tiên) là bọn Đinh Kiến nhóm họp quân sĩ bao vây phủ thành” (Đại Việt sử lược (Quyển 1) và Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 5, tờ 4-a). Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 4, tờ 21) cũng viết tương tự)

Lưu Diên Hựu là kẻ có tài và điều đó đã được chính sử của Trung Quốc công khai thừa nhận. Trong kế hoạch đối phó với Đinh Kiến thì Lưu Diên Hựu hoàn toàn ở thế thượng phong, hoàn toàn có dư dả điều kiện thuận lợi và những phương tiện lợi hại nhất để có thể bóp nát toàn bộ lực lượng đấu tranh của nhân dân đương thời do Đinh Kiến lãnh đạo, nhưng Lưu Diên Hựu đã không thể nào làm được điều đó. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thúc thủ của Lưu Diên Hựu là bởi Lưu Diên Hựu tuy rất giỏi, song Đinh Kiến cũng không kém phần tài ba. Đinh Kiến đã táo bạo tổ chức tấn công đúng vào hai chỗ yếu nhất của Lưu Diên Hựu. Một là giặc đang lúc chủ quan, vì mới giết được Lý Tự Tiên nên Lưu Diên Hựu đã yên trí đóng quân trong phủ thành tại Giao Chỉ (Phủ thành của An Nam Đô hộ phủ đặt tại Giao Chỉ. Địa điểm cụ thể có lẽ là khu vực mà sau là thành Tống Bình, nay thuộc Hà Nội) việc phòng bị không được cẩn trọng. Hai là bản thân Lưu Diên Hựu lúc bấy giờ cũng đang bị đồng liêu ganh ghét, họ chỉ mong Lưu Diên Hựu gặp đại nạn cho bõ ghét.

Toàn bộ lực lượng của Lưu Diên Hựu bị chia cắt làm hai, quân trong phủ thành bị bao vây và hoàn toàn bị cô lập còn quân ở ngoài phủ thành thì không thể liên lạc dược với chủ tướng, năng lực chiến đấu của giặc suy giảm nghiêm trọng. "Vì quân quá ít, xét thấy không thể chống cự nổi, (Lưu Diên Hựu) bèn đóng chặt cửa thành để vừa cố thủ vừa xin quân cứu viện” (Âu Dương Tu, Tống Kỳ. Tân Đường Thư. Sách đã dẫn. Đại Việt sử lược (Quyển 1), Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 5, tờ 4-b), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 4, tờ 21). Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm rằng, quân số của Lưu Diên Hựu không đến nỗi quá ít như thư tịch cổ của Trung Quốc đã chép (và các thư tịch cổ của ta đã chép lại). Chính Âu Dương Tu và Tống Kỳ trong Tân Đường Thư đã ghi rõ quân thường trực của An Nam Đô hộ phủ là 4.200 tên và 300 con ngựa. So với lực lượng nghĩa binh mới nhóm họp của Đinh Kiến thì đó là một quân số rất lớn). Bấy giờ ở Quảng Châu, quan trấn giữ của nhà Đường ở đây là Phùng Tử Du (Nhân vật này các bộ chính sử của ta đều chép là Phùng Tử Do, tuy nhiên, thư tịch cổ của Trung Quốc lại chép là Phùng Tử Du. Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm rằng, cũng trong thư lịch cổ của Trung Quốc, nhân vật Phùng Tử Du có khi được giới thiệu là một đại tộc lại cùng có khi được giới thiệu là quan biên ải. Theo chúng tôi thì có lẽ Phùng Tử Du vừa xuất thân là đại tộc vừa làm quan biên ải) tuy đã nhận được lời cầu cứu của Lưu Diên Hựu nhưng không đem quân đi cứu. Phùng Tử Du có hai lý do để không đi cứu. Một là vì không ưa gì Lưu Diên Hựu nên thấy Lưu Diên Hựu gặp nạn thì mừng thầm, kể như may mắn có cơ hội “mượn tay kẻ thù tiêu diệt đối thủ”. Hai là Phùng Tử Du cứ để mặc cho Lưu Diên Hựu và Đinh Kiến đánh nhau, bên nào thắng hay không bên nào thắng thì rốt cuộc cũng đều có lợi cho Phùng Tử Du, bởi vì đến lúc đó, Phùng Tử Du chỉ cần đem một đạo quân nhỏ đến để “dẹp loạn” cũng có thể dễ dàng thành công và như thế sẽ có cơ may được triều đình biết đến. Tuy nhiên, toan tính của Phùng Tử Du chỉ đúng được một nửa mà thôi.

Thúc thủ trong phủ thành, cả tinh thần lẫn thể xác của Lưu Diên Hựu đều bị suy kiệt, khả năng chống đỡ ngày một yếu dần, để rồi cuối cùng, Lưu Diên Hựu đã bị lực lượng nghĩa binh Đinh Kiến giết chết. Toàn bộ chính quyền của An Nam Đô hộ phủ tan rã. Và trong chỗ không ngờ, kế hoạch “mượn tay kẻ thù tiêu diệt đối thủ”, của Phùng Tử Du đã hoàn tất. Sau thắng lợi này, Đinh Kiến vào tiếp quản phủ thành và nhanh chóng xây dựng một cơ quan quyền lực mới do ông đứng đầu.

Tuy nhiên, ý đồ của Phùng Tử Du về việc đem quân đi dẹp loạn khi cả hai phe đối nghịch đều đã mệt mỏi và tổn thất nặng nề thì không thể thực hiện được vì triều đình nhà Đường đã xuống lệnh cho Tư mã Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh (Đại Việt sử ký toàn thư chép là Tào Trực Tĩnh, nhưng thư tịch cổ của Trung Quốc thì ghi rõ là Tào Huyền Tĩnh) đi đàn áp Đinh Kiến.

Bấy giờ, chính quyền của Đinh Kiến còn quá non trẻ, lực lượng quân sĩ mới nhóm họp tuy có tinh thần chiến đấu rất cao nhưng khả năng và kinh nghiệm trận mạc thì còn quá ít ói, cho nên, Tào Huyền Tĩnh đã triệt để lợi dụng tình hình này để liên tục tổ chức những cuộc tấn công lớn. Dù đã anh dũng chống đỡ một cách ngoan cường, nhưng nghĩa quân Đinh Kiến vẫn không sao có thể đẩy lùi được Tào Huyền Tĩnh. Đinh Kiến bị kẻ thù giết hại và cuộc khởi nghĩa do ông cầm đầu đến đó cũng bị dập tắt, ách đô hộ của nhà Đường lại được tái lập trên đất nước ta.

Đinh Kiến là hiện thân của ý chí quật cường và khí phách hiên ngang, của quyết tâm giành lại độc lập và chủ quyền cho non sông đất nước. Ông thực sự xứng đáng được xếp vào hàng những tên tuổi lớn của truyền thống quật khởi, đặc biệt là truyền thống quật khởi thể hiện trong thời Bắc thuộc.