In bài này
Hai Bà Trưng giương cao ngọn cờ chống bành trướng Đại Hán
Thứ Năm, 15/10/2009 - 12:07 PM
"Một xin rửa sạch nước thù. Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng. Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này" - Lời thề của Bà Trưng Trắc (Thiên Nam ngữ lục)

"Thế thượng thiên tân hòa nạn khổ
Mạc như thất khước tự do quyền"

Dịch nghĩa:

"Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do"

 Hồ Chí Minh (Nhật ký trong tù)

Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa



I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ MỚI

1. ÂU LẠC BỊ TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC VÀ ĐÔ HỘ

Vào cuối thời Tây Chu (Nhà Tây Chu thành lập năm 1027 TCN và bị diệt vong vào năm 771 TCN), một nhân vật tên là Trọng (Lúc này, người Trung Quốc cũng chỉ mới có tên chứ chưa có họ. Tần Trọng (như ghi chép của thư tịch Trung Quốc) không phải là họ và tên mà chỉ có nghĩa là ông Trọng ở đất Tần) đã lập ra nước Tần. Sự kiện này xảy ra vào năm 841 TCN. Sau hơn 6 thế kỷ tồn tại và truyền nối được 34 đời, từ một nước chư hầu rất bình thường nằm ở phía tây của nhà Tây Chu (sau đó là nhà Đông Chu. Lịch sử nhà Chu gồm hai giai đoạn khác nhau: Tây Chu (1027 TCN-771 TCN) và Đông Chu (770 TCN-256 TCN)), nước Tần đã trở thành một trong số 7 nước chư hầu mạnh nhất, sử thường gọi đó là Chiến Quốc thất hùng (Nhà Đông Chu được sử cũ chia làm hai chặng khác nhau: Chặng thứ nhất (770 TCN-476 TCN) gọi là thời Xuân Thu, chặng thứ hai (475 TCN-256 TCN) gọi là thời Chiến Quốc. Thời Chiến Quốc là thời tranh hùng tranh bá của 7 nước mạnh là Tần, Sở, Ngụy, Tề, Triệu, Yên và Hàn). Cuối cùng, chính nước Tần đã lần lượt tiêu diệt hết các nước chư hầu, thống nhất Trung Quốc và lập ra một đế chế rất hùng mạnh, đó là nhà Tần. Người đặt nền móng đầu tiên cho sự ra đời của nhà Tần là Tần Trang Tương Vương (tức Tử Sở, vua đời thứ 33 của nước Tần, làm vua từ năm 249 TCN-247 TCN), nhưng người chính thức khai sinh ra đế chế Tần lại là Tần Thuỷ Hoàng (Thư tịch cổ của Trung Quốc thường gọi Tần Thuỷ Hoàng - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần - là Triệu Doanh Chính, nhưng thực ra thì Doanh Chính cũng chưa hề có họ. Thân sinh của Doanh Chính là Tử Sở từng phải đi làm con tin ở nước Triệu và sinh Doanh Chính ở nước Triệu, nhân đó cho Doanh Chính lấy họ Triệu).

Năm 221 TCN, tức là ngay sau khi vừa lập ra đế chế Tần và xưng là Tần Thuỷ Hoàng, chính Tần Thuỷ Hoàng đã huy động đông đảo tướng lĩnh cùng với hàng chục vạn quân, ồ ạt đánh xuống vùng Lĩnh Nam, mở dầu cho cuộc Nam chinh tàn bạo chưa từng thấy (Về cuộc Nam chinh này, các thư tịch cổ của Trung Quốc như Hoài Nam Tử của Hoài Nam Vương Lưu An, Sử ký của Tư Mã Thiên, Tiền Hán Thư của Ban Cố... đều có chép đến).
 
Nền độc lập còn non trẻ của nhà nước Văn Lang bé nhỏ bị uy hiếp một cách nghiêm trọng.Trước những diễn biến rất nguy hiểm của tình hình như vậy, đông đảo binh sĩ Văn Lang đã tình nguyện tiến lên phía Bắc, sát cánh với nhân dân vùng Lĩnh Nam chiến đấu chống kẻ thù chung. Cuộc hợp lực để chống trả quyết liệt ngoan cường và đầy hiệu quả đó đã khiến cho 50 vạn quân Tần bị sa lầy, đúng như nhận xét của nhà sử học Tư Mã Thiên: “Lúc bấy giờ, nhà Tần ở phía Bắc thì mắc hoạ với người Hồ, ở phía Nam thì mắc hoạ với người Việt, đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái   cũng không xong, trải hơn 10 năm, đàn ông phải mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi, người ta thắt cổ chết trên cây dọc đường, người chết trông nhau” (Tư Mã Thiên. Sử ký Tư Mã Thiên, Quyển 112)...

Để cứu nguy cho Đồ Thư, Tần Thuỷ Hoàng liền sai Nhâm Ngao và Triệu Đà đem thêm 10 vạn quân xuống Lĩnh Nam. Chính hai viên tướng này là những kẻ đã vạch mưu kế đánh xuống Văn Lang hòng chặn đứng sự chi viện của Văn Lang đối với vùng Lĩnh Nam. Năm 214 TCN, từ Tượng Quận, quân Tần đã mở những cuộc tấn công rất dữ dội vào lãnh thổ của Văn Lang. Lúc bấy giờ, Hùng Vương đã tỏ ra bất lực trước thử thách cam go này, vì thế nhân dân ta đã phải tự tổ chức lấy cuộc chiến đấu của mình. Hoài Nam Vương Lưu An cho biết rằng: “Người Việt đều vào rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt” và "họ cùng nhau cử người tuấn kiệt lên làm tướng, đêm đêm ra đánh phá quân Tần”. Kết quả là họ đã: "Đại phá quân Tần, giết chết được Đồ Thư” (Hoài Nam Vương Lưu An. Hoài Nam Tử). Năm 210 TCN, Tần Thuỷ Hoàng qua đời, nhà Tần đã buộc phải huỷ bỏ cuộc Nam chinh.

Trong truyền thuyết dân gian của ta có chuyện Lý Thân tức Lý Ông Trọng. Có lẽ Lý Thân chính là một trong số những "người tuấn kiệt” của cuộc chiến đấu gian nguy này (Chuyện Lý Ông Trọng được Vũ Quỳnh chép trong Lĩnh Nam chích quái. Ngoài ra thần tích Đức Thánh Chèm Từ Liêm huyện Lý Thiên Vương sự tích cũng chép chuyện này khá rõ). Thành quả lớn nhất của cuộc kháng chiến chống Tần chính là sự thay thế Văn Lang bằng quốc gia Âu Lạc mạnh mẽ hơn (năm 208 TCN) và sự chuyển giao quyền lực rất tự nhiên từ Hùng Vương sang An Dương Vương.

Tư Mã Thiên cho hay rằng: “kịp khi Tần Thủy Hoàng chết thì cả thiên hạ nổi lên chống" (Tư Mã Thiên. Sử ký Tư Mã Thiên, Quyển 112) và trong số những người của "thiên hạ nổi lên chống”  ấy, ở vùng trung nguyên của nhà Tần thì mạnh nhất là thế lực của Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ, lập ra nhà Tiền Hán năm 206 TCN, ở ngôi vương 4 năm (206 TCN-202 TCN), ở ngôi hoàng đế 8 năm (202 TCN-195 TCN) mất năm 195 TCN, hưởng thọ 61 tuổi (256 TCN-195 TCN)), còn ở khu vực phía Nam của nhà Tần thì hùng hậu nhất vẫn là thế lực của Triệu Đà (tức Triệu Vũ Đế, lập ra nước Nam Việt năm 206 TCN, ở ngôi vương 23 năm (206 TCN-183 TCN), ở ngôi hoàng đế 46 năm (183 TCN-137 TCN), mất năm 137 TCN, hưởng thọ 120 tuổi (257 TCN-137 TCN)!). Cùng trong năm 206 TCN, Lưu Bang đã lập ra nhà Hán, còn Triệu Đà thì lập ra nước Nam Việt. Nhìn từ bất cứ góc độ nào thì thực lực của Lưu Bang cũng mạnh hơn Triệu Đà.

Trong mối tương quan thế và lực rất không có lợi như vậy, con đường duy nhất của Triệu Đà là phải tìm cách mở rộng lãnh thổ để từng bước xoá dần khoảng cách thế và lực với Lưu Bang. Nước Âu Lạc láng giềng trở thành mục tiêu bành trướng của Triệu Đà. Năm 183 TCN, tức là ngay khi vừa xưng Đế, Triệu Đà đã cho quân tràn xuống Âu Lạc, nhưng, tất cả các cuộc tấn công của Triệu Đà trước sau đều bị chặn đứng. Quân dân Âu Lạc thì kiên cường, thành Cổ Loa thì vững chắc, kế sách chống đỡ của An Dương Vương thì rất có hiệu quả, cho nên, quân Nam Việt xâm lăng buộc phải rút lui. Thấy không thể đè bẹp Âu Lạc bằng vũ lực Triệu Đà bèn tìm mọi biện pháp để sắp đặt cho con trai là Trọng Thuỷ kết hôn với con gái của An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau đó, Triệu Đà lại khôn khéo thuyết phục để cho Trọng Thuỷ được đến ở rể ngay trong kinh thành Cổ Loa. Cuộc hôn nhân này đã khiến cho An Dương Vương và Mỵ Châu mơ hồ, mất cảnh giác. Năm 179 TCN, Triệu Đà đã bất ngờ cho quân ào ạt tấn công vào Âu Lạc. An Dương Vương bị đại bại và nền đô hộ của chính quyền phong kiến Trung Quốc đối với nước ta bắt đầu được thiết lập kể từ đó.

Trả giá cho sự mơ hồ và mất cảnh giác của An Dương Vương là cả một quá trình liên tục chiến đấu và hi sinh tài sản cũng như xương máu của không biết bao nhiêu thế hệ, kéo dài đằng đẵng đến hơn một ngàn năm (từ năm 179 TCN đến năm 905). Chuyện nỏ thần được mãi mãi lưu truyền bởi vì chính đó là một bài học lớn của lịch sử:

"Tôi  kể ngày xưa, chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lẫm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
".

(Tố Hữu)

Từ năm 179 TCN-905, Âu Lạc liên tiếp bị 9 triều đại Phong kiến Trung Quốc đô hộ (Niên đại tồn tại của các triều đại ghi dưới đây chỉ là niên đại danh nghĩa, niên đại thực tế thì có khác hơn một chút). Đành rằng triều đại nào cũng có những bước thăng trầm và không phải lúc nào chúng cũng kiểm soát được Âu Lạc một cách chặt chẽ, nhưng trên đại thể, chúng ta cũng có thể liệt kê một danh sách các triều đại cụ thể như sau :

  1. Nam Việt: do Triệu Đà lập ra vào năm 206 TCN, truyền được tất cả 95 năm (206 TCN-111 TCN) với 5 đời nối nhau trị vì. Năm 179 TCN, Nam Việt đã đánh tan chính quyền của An Dương Vương rồi thống trị Âu Lạc liên tục trong 68 năm (179 TCN-111 TCN).
  2. Tiền Hán (cũng tức là Tây Hán): do Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) lập ra vào năm 206 TCN, truyền được 214 năm (206 TCN-08 CN) với 13 đời nối nhau trị vì. Năm 111 TCN, nhà Tiền Hán đã lật nhào được cơ đồ của Nam Việt và thay Nam Việt thống trị Âu Lạc liên tục trong 119 năm (111 TCN-08).
  3. Nhà Tân: do Vương Mãng lập ra năm 08, truyền được 17 năm với 2 đời nối nhau trị vì. Nhà Tân đã thay nhà Tiền Hán thống trị Âu Lạc trong 17 năm (08-25).
  4. Hậu Hán (cũng tức là Đông Hán): do Lưu Tú (tức Hán Quang Vũ) lập ra năm 25 (sau khi tiêu diệt được nhà Tân), truyền được 195 năm với 13 đời nối nhau trị vì. Nhà Hậu Hán thay nhà Tân thống trị Âu Lạc trong 195 năm (25-220).
  5. Nhà Ngô: do Tôn Quyền (Ngô Đại Đế) lập ra năm 222, truyền được 58 năm với 4 đời nối nhau trị vì. Ngô là một trong 3 nước của thời hỗn chiến Ngô-Thục-Ngụy (sử thường gọi đó là thời Tam Quốc). Trên danh nghĩa thì nhà Ngô đã thay Hậu Hán (tức Đông Hán) thống trị Âu Lạc liên tục trong 58 năm (222-280).
  6. Nhà Tấn: do Tư Mã Viêm (Tấn Vũ Đế) lập ra năm 265 nhưng phải đến năm 280 mới thực sự nắm được quyền chi phối phần lớn lãnh thổ Trung Quốc. Tuy không liên tục nhưng nhà Tấn cũng truyền được 155 năm với 15 đời nối nhau trị vì. Trên danh nghĩa thì nhà Tấn đã thay nhà Ngô thống trị Âu Lạc liên tục trong 140 năm (280-420). Lịch sử nhà Tấn cũng có 2 thời kỳ khác nhau là Tây Tấn (265-316) và Đông Tấn (317-420).
  7. Nam triều: là các triều ở vùng phía Nam Trung Quốc trong cuộc hỗn chiến Nam-Bắc triều (420-581). Nam triều gồm có tất cả 4 triều: Tống (420-479), Tề (479-502), Lương (502-557) và Trần (557-589) (Nhà Trần tuy vẫn còn tồn tại lay lắt thêm mấy năm nữa nhưng cục diện Nam-Bắc triều thì kể như đã hoàn toàn kết thúc kể từ năm 581 - năm nhà Tuỳ được dựng lên). Trên danh nghĩa thì Nam triều đã thay nhà Tấn thống trị Âu Lạc liên tục trong 122 năm (420-542).
  8. Nhà Tuỳ: do Dương Kiên (Tuỳ Văn Đế) lập ra năm 581, truyền được 37 năm (581-618) với 3 đời nối nhau trị vì. Nhà Tuỳ đã đánh bại Lý Phật Tử, chiếm nước Vạn Xuân rồi thiết lập chính quyền đô hộ trong 16 năm (602-618).
  9. Nhà Đường: do Lý Uyên (Đường Cao Tổ) lập ra năm 618, truyền được 289 năm (618-907) với tất cả 21 đời nối nhau trị vì. Trên danh nghĩa, nhà Đường đã thay nhà Tuỳ thống trị nước ta trong 287 năm (618-905). Đến năm 907, nhà Đường mới hoàn toàn sụp đổ, nhưng nền đô hộ của nhà Đường ở trên đất nước ta thì bị xoá bỏ từ năm 905.

Như vậy là từ năm 179 TCN-905, Âu Lạc luôn bị các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ. Trong khoảng thời gian dài đằng đẵng hơn 1000 năm đó, cũng đã có không ít lần nhân dân Âu Lạc quả cảm vùng lên đấu tranh và cũng đã từng có không ít lần giành được độc lập, nhưng nhìn chung thì tất cả cũng chỉ là những thời gian ngắn ngủi. Gần đây, trên cơ sở phân tích "lực ly tâm chính trị” của các guồng máy chính quyền đô hộ ở Âu Lạc với chính quyền của triều đình phong kiến trung ương ở Trung Quốc, một số nhà sử học (cả trong cũng như ngoài nước) đã nêu ra một kết luận rất mới mẻ và cũng rất đáng lưu ý, rằng lịch sử Việt Nam không hề có hơn 1000 năm bị Bắc thuộc, mà thời gian thực sự là Bắc thuộc theo đúng nghĩa của từ này chỉ kéo dài khoảng hơn 500 năm. Theo chúng tôi thì “lực ly tâm chính trị” là một thực tế lịch sử và chính thực tế đó đã khiến cho khá nhiều guồng máy chính quyền đô hộ được thiết lập trên đất nước ta không còn phản ánh nguyên vẹn ý chí của triều đình phong kiến trung ương bên Trung Quốc nữa, nhưng, đó cũng quyết không phải là chính quyền phản ánh ý chí cũng như tâm nguyện của xã hội Âu Lạc. Cho nên, vấn đề khung niên đại cụ thể của thời Bắc thuộc là rất cần được xác định lại cho thật đúng, nhưng nếu nói rằng gần như toàn bộ thời gian kéo dài hơn 1000 năm (179 TCN-905) là thời Âu Lạc mất độc lập và chủ quyền thì lại hoàn toàn chính xác. Nói khác hơn, cho dẫu có không ít lúc chính quyền đô hộ trên đất Âu Lạc không thật sự là của Trung Quốc thì cũng chớ vì thế mà vội vã kết luận rằng, đó là chính quyền của người Âu Lạc. Ở đâu và của ai bao giờ cũng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

2. CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ CỦA PHONG KIẾN TRUNG QUỐC

a) Về chính trị:

Chính sách chủ yếu nhất, bao trùm nhất và xuyên suốt nhất của phong kiến Trung Quốc là tìm đủ mọi cách để nhằm xoá bỏ đến tận gốc dấu ấn của nền độc lập và chủ quyền từng in đậm trong tâm khảm của các thế hệ nhân dân ta. Đất đai của Âu Lạc bị coi là một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc và được cắt đặt thành những đơn vị hành chính mới :

  • Thời thuộc Tiền Hán (206 TCN-08): Đất đai của Nam Việt và Âu Lạc được nhà Tiền Hán gộp lại và gọi chung là Giao Châu. Giao Châu quản lãnh 9 quận, trong đó đất Âu Lạc được chia làm 3 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Tuy chỉ có ba quận nhưng Âu Lạc lại có vị trí quan trọng nhất đối với toàn cõi Giao Châu. Bấy giờ, chức quan đứng đầu Giao Châu là Thứ sử và chức quan đứng đầu mỗi quận là Thái thú. Xét về cấp bậc thì chức Thái Thú nhỏ hơn chức Thứ sử, nhưng, chính Thái thú mới là kẻ trực tiếp nắm quyền sinh sát đối với dân.
      • Đất đai của quận Giao Chỉ thời Tiền Hán nay đại để tương ứng với vùng từ tỉnh Ninh Bình trở ra. Bấy giờ, quận Giao Chỉ có tất cả 10 huyện với 746.237 suất đinh (Ban Cố (Trung Quốc). Tiền Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán).
      • Đất đai của quận Cửu Chân thời Tiền Hán nay đại để tương ứng với tỉnh Thanh Hoá và khu vực phía Bắc của tỉnh Nghệ An. Quận Cửu Chân có tất cả 7 huyện với 166.113 suất đinh (Ban Cố (Trung Quốc). Tiền Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán).
      • Đất đai quận Nhật Nam nay đại để tương ứng với vùng từ Nghệ An trở vào Nam (Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vùng cực Nam của quận Nhật Nam ở vào khoảng đèo Hải Vân, có lan sang chút ít của Quảng Nam. Cũng có người nói cực Nam của quận Nhật Nam kéo đến đến Phú Yên ngày nay, tuy nhiên, sức thuyết phục của ý kiến này không cao). Quận này quản lãnh 5 huyện với 69.485 suất đinh (Ban Cố (Trung Quốc). Tiền Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán).
  • Thời thuộc Tấn (280-420): Địa giới của toàn cõi Giao Châu bị thu nhỏ lại, chỉ có một phần của Nam Việt cũ cộng với Âu Lạc và gọi là Giao Châu. Phần này được chia lại thành 7 quận (Phòng Kiều (Trung Quốc): Tấn Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán), đó là :
      • Hợp Phố: (quản lãnh 6 huyện).
      • Giao Chỉ : (quản lãnh 14 huyện).
      • Tân Xương: (quản lãnh 6 huyện).
      • Vũ Bình: (quản lãnh 7 huyện).
      • Cửu Chân: (quản lãnh 7 huyện).
      • Cửu Đức: (quản lãnh 8 huyệt).
      • Nhật Nam: (quản lãnh 5 huyện).
  • Thời thuộc Nam triều (420-542): Lưu Dục (Tống Vũ Đế, 420-422) đã cắt đặt tại các đơn vị hành chánh, theo đó thì đất đai của Âu Lạc cũ từ chỗ chỉ có 3 quận đã được chia lại thành 8 quận là: Giao Chỉ, Long Biên, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Nghĩa Xương và một quận nữa thư tịch cổ của Trung Quốc chép là khuyết danh nên chưa rõ đó là quận nào.
  • Thời thuộc Tuỳ (602-618): Toàn bộ đất đai Âu Lạc cũ cũng được nhà Tuỳ chia thành 7 quận nhưng địa giới cũng như tên gọi của từng quận cũng có khác hơn so với các triều đại trước. Theo ghi chép của thư tịch cổ Trung Quốc thì tên gọi và số hộ dân cụ thể của cả 7 quận này như sau (Ngụy Trưng (Trung Quốc). Tùy Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư quán):
      • Giao Chỉ: (quản lãnh 9 huyện với 30.056 hộ).
      • Cửu Chân: (quản lãnh 7 huyện với 16.135 hộ).
      • Nhật Nam: (quản lãnh 8 huyện với 9.915 hộ).
      • Tị Ảnh: (quản lãnh 4 huyện với 1.815 hộ).
      • Hải Âm: (quản lãnh 4 huyện với 1.100 hộ).
      • Lâm Ấp: (quản lãnh 4 huyện với 1.220 hộ).
      • Ninh Việt: Chưa rõ số huyện và số hộ.
  • Thời thuộc Đường: Vào năm 622, triều đình Lý Uyên (Đường Cao Tổ, 618-626) đã bãi bỏ toàn bộ hệ thống quận huyện cũ và lập ra Giao Châu Đô hộ phủ. Năm 679, triều đình Lý Trị (tức Đường Cao Tông, 649-683) đổi Giao Châu Đô hộ phủ thành An Nam Đô hộ phủ. Bấy giờ, An Nam Đô dộ phủ lãnh 12 châu vùng đồng bằng cùng 41 châu vùng rừng núi và trung du (gọi là châu Ki Mi - châu ràng buộc lỏng lẻo). Danh sách 12 châu vùng đồng bằng cụ thể như sau (Âu Dương Tu, Tống Kỳ (Trung Quốc). Tân Đường Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán):

(1) Giao Châu;        (2) Phong Châu;           (3) Trường Châu;    (4) Ái Châu;
(5) Diễn Châu;        (6) Phúc Lộc Châu;    (7) Hoan Châu;        (8) Lục Châu;
(9) Vũ An Châu;     (10) Vũ Nga Châu;     (11) Thang Châu;     (12) Chi Châu

Trong 12 châu đồng bằng nói trên, có 4 châu nay thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, đó là: Vũ An Châu, Vũ Nga Châu, Thang Châu và Chi Châu. Về các châu Ki Mi, rất tiếc là chúng tôi chỉ thống kê được danh sách dựa theo ghi chép của thư tịch cổ chứ chưa xác định được vị trí cụ thể so với bản đồ hiện nay. Danh sách 41 châu Ki Mi cụ thể như sau (Âu Dương Tu, Tống Kỳ (Trung Quốc). Tân Đường Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán): 

Bàng Châu               Long Vũ Châu            Tư Nông Châu        Tân An Châu
Lâm Tây Châu         Vũ Định Châu             Long Châu               Tư Lăng Châu
Môn Châu                Phàn Đức Châu         An Đức Châu           Nam Đăng Châu
Quy Hoá Châu         Tây Nguyên Châu    Vũ Vân Châu           Tư Quách Châu
Đô Kim Châu            Thử Châu                   Lộc Châu                  Dư Châu
Kim Long Châu        Đức Hoá Châu          Kim Quách Châu      Quận Châu
Cam Đường Châu     Quy Châu                  Lạng Châu                Bình Nguyên Châu
Nam Bình Châu         La Phục Châu           Kha Phú Châu          Lang Mang Châu
Đề Thượng                Vạn Kim Châu           Vi Châu                     Kim Bưu Châu
Vũ Lục Châu             Tín Châu                    Tây Bình Châu         Thiêm Lăng Châu
Thượng Tư Châu.  

Từ sau năm 619, nhà Đường còn tiến hành chia đặt lại đơn vị hành chính khá nhiều lần nữa, nhưng, do sự thay đổi không lớn nên không cần thiết phải liệt kê ra. Như vậy là với việc xoá hẳn quốc hiệu và liên tiếp cho chia đặt lại các đơn vị hành chính, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã bộc lộ rất rõ ý định quyết thủ tiêu hoàn toàn nền độc lập của nhân dân ta, quyết biến nước ta thành một địa phương của Trung Quốc. Có thấy hết bản chất xấu xa của mưu đồ chính trị này chúng ta mới có thể thấy hết tài năng phi phàm của các bậc danh tướng thời Bắc thuộc - những người con ưu tú đã biết khơi dậy ý thức về cội nguồn của xã hội ngỡ như đã vĩnh viễn bị chôn vùi.

Để tăng cường sức mạnh chính trị cho các chính quyến đô hộ, luật pháp Trung Quốc đã nghiễm nhiên được áp dụng ở Âu Lạc. Thứ luật pháp áp đặt và hoàn toàn xa lạ đó luôn luôn được giai cấp thống trị coi là vũ khí lợi hại của chúng đối với toàn thể xã hội ta lúc bấy giờ.

b) Về quân sự

Chính sách quan trọng nhất và xuyên suốt nhất của các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ là sẵn sàng đàn áp mọi phong trào đấu tranh của nhân dân ta một cách đẫm máu. Để thực hiện chính sách này, hai biện pháp lớn đã được các chính quyền đô hộ gấp rút tiến hành. Một là xây dựng một hệ thống thành luỹ thật dày đặc. Vì lẽ này mà vào năm 40, Hai Bà Trưng đã đánh tan quân đô hộ nhà Đông Hán và chiếm được những 65 thành trì. Hai là duy trì một đội quân thường trực thật hùng hậu. Đầu thời Đông Hán, dù toàn cõi Âu Lạc cũ chỉ mới có khoảng 1 triệu suất đinh (Vào cuối thời Tây Hán, nếu tổng hợp những con số theo khi chép của Ban Cố (Trung Quốc) trong Tiền Hán Thư thì 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam có tất cả 918.835 suất đinh. Từ cuối Tây Hán đến đầu Đông Hán là một khoảng thời gian ngắn, cho nên, chúng tôi ước đoán là toàn cõi Âu Lạc lúc này chỉ có khoảng 1 triệu suất đinh), nhưng tổng số quân đội thường trực của chính quyền đô hộ đã lên tới tổng số 12.000 tên. Các triều đại phong kiến Trung Quốc sau nhà Đông Hán cũng đều quyết tâm duy trì một lực lượng quân đội thường trực hùng hậu tương tự như thế. Cũng cần nói thêm rằng, quân đội thường trực đã quá đông mà mỗi khi cần tiến hành đàn áp bất cứ một cuộc khởi nghĩa nào, chính quyền đô hộ ở Âu Lạc lại còn nhanh chóng được nhận thêm đông đảo viện binh do triều đình trung ương điều động từ Trung Quốc đến. Xin nêu 3 ví dụ cụ thể :

  • Năm 43, triều đình Hán Quang Vũ (25-57) sai Mã Viện đem 20.000 quân đi đàn áp nghĩa binh của Hai Bà Trưng (Lịch Đạo Nguyên (Trung Quốc). Thủy Kinh Chú. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán. Ngoài số quân đông đảo này, Mã Viện còn được mang theo đến 2.000 xe, thuyền có loại lớn nhỏ nữa).
  • Năm 248, triều đình Ngô Đại Đế (229-252) đã sai Lục Dận đem 8.000 quân đi đàn áp nghĩa binh của Bà Triệu (Trần Thọ (Trung Quốc). Tam Quốc Chí (Ngô Chí). Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán).
  • Nhà Lương (502-557) khi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và nhà Đường (618-907) khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, của Mai Thúc Loan, Phùng Hưng hay Dương Thanh cũng đều điều động những lực lượng đi cứu viện có quân số áp đảo.

Nhìn chung, chính quyền đô hộ là chính quyền quân sự. Rất nhiều quan đô hộ cũng chính là những tướng lĩnh từng trực tiếp cầm quân và giàu kinh nghiệm trận mạc. Sức mạnh của các chính quyền đô hộ đều được xây dựng chủ yếu là dựa vào sức mạnh của vũ khí và của lực lượng vũ trang. Các biện pháp thống trị cũng đều mang nặng kiểu cách quân sự.

c) Về kinh tế

Chính sách chung nhất của tất cả các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ là ra sức vơ vét tài nguyên và của cải trên đất nước ta. Phương thức thực hiện phổ biến và lâu dài nhất của chúng chính là thu cống phẩm. Từ những gì quý nhất, hiếm nhất, tốt nhất và đẹp nhất... cho đến những gì dẫu là bình thường nhưng thiết thực thì cũng đều bị coi là sản phẩm buộc phải cống nạp. Ở vùng rừng núi và trung du, đó là gỗ quý, khoáng sản, hương liệu, chim lạ thú hiếm. Ở vùng đồng bằng, đó là những đặc sản nông nghiệp và thủ công nghiệp. Ở vùng ven biển và hải đảo, đó là các loại hải sản quý, san hô, ngọc trai... Ngoài ra, chính bản thân con người (nhất là thợ thủ công lành nghề, tráng đinh khoẻ mạnh và phụ nữ) cũng nằm trong danh sách các loại cống phẩm nhất thiết phải có. Để có căn cứ phục vụ cho việc thu cống phẩm, chính quyền đô hộ đã tiến hành kê biên hộ khẩu và thống kê dân đinh. Ngay dưới thời Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà), tổng số dân đinh của riêng hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân đã được ghi rõ là 400.000 người. Từ thời Hán trở đi, tất cả những gì là đặc sản luôn được chú ý vơ vét nhiều nhất. Xin được nêu vài ví dụ cụ thể:

  • Nhà Hán đặt 2 chức quan mới là Tu Quan (chuyên thu hoa quả cùng các thứ thực phẩm ngon) và Quất Quan (chuyên thu cây quýt và quả quýt).
  • Hán Vũ Đế (141-87 TCN) còn cho quan lại sang Giao Chỉ để thu giống cây quý đem về Trung Quốc trồng. Chính Hán Vũ Đế đã Cho xây Phù Lệ Cung (cung điện có vườn dành riêng để trồng cây vải lấy từ Giao Chỉ về) nhưng, trồng được 100 cây thì chẳng mấy chốc, cả 100 cây đều chết.
  • Năm 262, Ngô Cảnh Đế (258-264) buộc dân ta phải nạp 3000 con chim công, khiến cho thiên hạ ai ai cũng oán hận.

Từ thời Đường trở đi, phép Tô - Dung - Điệu được áp dụng. là phần sản phẩm nông nghiệp mà những dân đinh cày ruộng công phải đóng góp. Dung là số ngày đi làm không công (chủ yếu là tạp dịch) mà tất cả mọi người phải thực hiện. Điệu là số sản phẩm thủ công mà xã hội ta phải dâng tiến (thường được quy theo giá tương ứng với tơ hoặc lụa).

Về hình thức, phép Tô - Dung - Điệu tuy chưa rạch ròi như chế độ thuế khoá nhưng cũng có vẻ như đã có phần tiến bộ hơn việc thu cống phẩm, tuy nhiên, đó chỉ là về hình thức. Về thực chất thì lúc bấy giờ, phép Tô - Dung - Điệu dược đồng thời áp dụng chứ không hề thay thế cho chế độ thu cống phẩm. Mức đóng góp của nhân dân vì thế mà ngày càng trở nên nặng nề. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp và cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nổ của hàng loạt những cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ.

d) Về xã hội

Vào thời Bắc thuộc, hàng loạt người Trung Quốc đã tìm đường di cư đến nước ta. Họ ra đi bởi những lý do rất riêng của mình nhưng điều đáng nói là chính quyền đô hộ đã tỏ ra rất thống nhất trong chính sách chung là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những cuộc di cư đó. Nếu cần phân loại để dễ theo dõi thì chúng ta có thể chia dân Trung Quốc di cư đến nước ta trong thời Bắc thuộc thành ba nhóm chính :

  • Nhóm thứ nhất gồm khá đông dân nghèo của Trung Quốc, do không chịu nổi ách áp bức bóc lột nặng nề của giai cấp phong kiến thống trị nên họ đành phải từ bỏ quê cha đất tổ để đi kiếm sống. Một bộ phận không nhỏ của nhóm thứ nhất này đã định cư tại Âu Lạc và dần dần bị Việt hoá, họ tự nhận mình là người Việt và thực tế cũng cho thấy là phần lớn trong số họ đã sống đầy trách nhiệm với xứ sở mới như tất cả những người Việt khác. Đại diện tiêu biểu cho nhóm thứ nhất này có lẽ là Lý Bí (hay Lý Bôn).
  • Nhóm thứ hai gồm đội ngũ những nho sĩ Trung Quốc do bất đắc chí nên đã tự tìm đường đến Âu Lạc và coi Âu Lạc chính là đất dung thân. Vào thời nhà Hán, có lúc: "Danh sĩ nhà Hán tìm đường lánh nạn đến nước la đông ước chừng cả trăm người" (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 3, tờ 8-b). Nhân vật xứng đáng đại diện cho nhóm thứ hai này có lẽ là Sĩ Nhiếp (đến lánh nạn vào khoảng cuối thế kỷ II). Sĩ Nhiếp người Thương Ngô, đỗ Mậu tài (tức Tú tài), một thời gian sau khi đến lánh nạn, Sĩ Nhiếp được nhà Hậu Hán bổ làm Thái thú quận Giao Chỉ.
  • Nhóm thứ ba gồm các nhà tu hành Phật giáo và Đạo giáo, họ đã dừng chân ở Âu Lạc để quảng bá đức tin. Không ít người trong số họ đã gắn bó phần lớn cuộc đời tu hành của mình với lãnh thổ và với nhân dân Âu Lạc. Về đại diện tiêu biểu cho các nhà tu hành của Phật giáo, chúng ta có thể kể đến Thiền sư Vô Ngôn Thông, người đã đến Âu Lạc vào năm 820 và đã khai sáng ra dòng Thiền tông Vô Ngôn Thông. Về đại diện tiêu biểu cho các nhà tu hành theo Đạo giáo, chúng ta có thể kể đến Đổng Phụng và Cát Hồng. Đổng Phụng người Phúc Kiến, đến Âu Lạc vào khoảng cuối thế kỷ II. Chính Đổng Phụng là người đã cứu Sĩ Nhiếp thoát khỏi cơn bạo bệnh. Cát Hồng (284-364) là tác giả của Bão Phác Tử nội ngoại thiên - một tác phẩm rất có giá trị của Đạo giáo. Cho dẫu những người thuộc nhóm thứ ba đều chỉ biết trọn đời hi sinh cho lý tưởng tu hành thì trong cuộc sống thực tiễn họ vẫn tham gia một cách rất tự nhiên vào quá trình từng bước làm thay đổi đần kết cấu xã hội người Việt.

Về xã hội, điều quan trọng nhất không phải là quá trình không ngừng thay đổi về kết cấu mà chính là quá trình liên tục phân hoá và phân cực diễn ra ngày một sâu sắc. Bấy giờ, hai cực đối kháng đã hình thành và ngày càng không thể dung hợp với nhau. Cực thứ nhất bao gồm gần như toàn bộ xã hội người Việt bị mất nước, bị áp bức và bị bóc lột rất nặng nề. Cực thứ hai gồm tất cả quân cướp nước và bè lũ tay sai tham tàn. Từ hai cực đối kháng rất gay gắt này, hai dòng lịch sử hoàn toàn khác nhau về chất cũng đã đồng thời xuất hiện và tồn tại. Dòng thứ nhất là dòng Bắc thuộc, dòng phản ánh bản chất bành trướng và xâm lăng tàn bạo, dòng bộc lộ rõ ràng tham vọng thiết lập và duy trì cho bằng được nền đô hộ của tất cả các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với toàn cõi Âu Lạc. Dòng thứ hai là dòng chống Bắc thuộc, dòng phản ánh tinh thần quật khởi rất ngoan cường của toàn thể xã hội người Việt yêu nước, dòng bừng bừng khí thế quyết tâm xả thân cứu nước của hàng loạt những thế hệ khác nhau, dòng kết tinh khí phách hiên ngang thể hiện trong lời của Hai Bà Trưng :

Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
(Thiên Nam ngữ lục)

Đây chính là hai dòng nổi bật nhất, cũng là hai dòng xuyên suốt nhất. Nắm được diễn tiến chung của cả hai dòng này cũng có nghĩa là đã nắm được những nội dung mang tính bản chất nhất của lịch sử thời Bắc thuộc. Danh tướng Việt Nam, tập 4 giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của những tướng lĩnh xuất chúng, những đại biểu sáng giá nhất của dòng lịch sử thứ hai - dòng chống Bắc thuộc. Mỗi người sinh ra và lớn lên trong những thời điểm khác nhau nhưng điểm chung nhất của tất cả những người con ưu tú ấy là ở chỗ: họ sống chỉ một đời mà danh thơm thì lưu truyền mãi mãi đến muôn đời.

Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa


II - HAI BÀ TRƯNG - HAI BẬC NỮ DANH TƯỚNG ĐẦU TIÊN CÓ CÔNG GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ CHỐNG CHỦ NGHĨA BÀNH TRƯỚNG ĐẠI HÁN

"Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nối áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành
"
(Đại Nam quốc sử diễn ca)

1. GỐC TÍCH HAI BÀ TRƯNG TRONG GHI CHÉP CỦA THƯ TỊCH CỔ

Thư tịch cổ nhất của nước ta có chép chuyện Hai Bà Trưng là bộ Đại Việt sử lược. Sách này cho hay: "Trưng Trắc người huyện Mê Linh, con gái của quan Lạc tướng vùng này. Trưng Trắc lấy chồng người huyện Chu Diên, tên là Thi Sách. Người vợ tính rất hùng dũng, (Thi Sách) làm việc có sai phạm nên bị Thái thú Tô Định dùng pháp luật để trừng trị. Trưng Trắc giận quá, bèn cùng với em gái là Trưng Nhị khởi binh ở Phong Châu, đánh phá các quận huyện. Dân ở hai quận Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng cả. Bà chiếm được 65 thành ở ngoài phía Nam của nhà Hán rồi tự lập làm Vua, đóng đô ở huyện Mê Linh".

Thư tịch cổ thứ hai của nước ta có chép chuyện Hai Bà Trưng là bộ Đại Việt sử ký toàn thư do Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê biên soạn. Sách này có mấy đoạn rất đáng chú ý :

"Năm Kỷ Hợi, đời Hán Quang Vũ Lưu Tú (người khai sáng ra nhà Hậu Hán (tức Đông Hán: 25-220), ở ngôi 32 năm (25-57), mất năm 57, hưởng thọ 63 tuổi (06 TCN-57). Trong thời gian ở ngôi, Hán Quang Vũ sử dụng 2 niên hiệu là Kiến Vũ (25-56) và Kiến Vũ Trung Nguyên (56-57)), niên hiệu Kiến Vũ năm thứ 15,Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định, chính sự tàn tạo và tham lam, Trưng Nữ Vương liền dấy binh để đánh (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỉ, quyển 3, tờ 1-b). ).

"(Vua) tên huý là Trắc, họ Trưng, nguyên họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh (Phong Châu), vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên. Thi Sách cũng là con Lạc tướng. Con hai nhà Lạc tướng kết hôn với nhau".

"Mùa xuân, tháng 2 (năm Canh Tý 40 - NKT), Vua khổ vì Thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Tô Định giết chồng mình, mới cùng với em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở các châu. (Tô) Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều hưởng ứng. (Trưng Trắc) lấy được 65 thành rồi tự lập làm Vua, xưng là họ Trưng".

Từ hai thư tịch cổ nói trên, chúng ta có thể rút ra được mấy vấn đề chung nhất và nổi bật nhất vế lý lịch cuộc đời của Hai Bà Trưng như sau:

  • Hai Bà người họ Trưng mà nguyên lại là họ Lạc.
  • Quê quán: huyện Mê Linh.
  • Thành phần gia đình: cha là Lạc tướng của huyện Mê Linh.
  • Trưng Trắc là vợ của Thi Sách mà Thi Sách là con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên.
  • Thái thú Tô Định tham lam và tàn bạo, giết chết Thi Sách nên Trưng Trắc cùng với Trưng Nhị khởi binh đánh cho đại bại. Hai Bà giành được thắng lợi, chiếm 65 thành rồi xưng Vương.

Sau Đại Việt sử lược Đại Việt sử ký toàn thư, các thư tịch cổ của ta như Khâm định Việt sử thông giám cương mục và một số bộ dã sử khác cũng chép chuyện Hai Bà Trưng, nhưng nói chung không có gì mới mẻ. Thư tịch cổ của Trung Quốc (ví dụ như Hậu Hán Thư), tuy có vài dòng về Hai Bà Trưng, nhưng không bàn đến gốc tích của Hai Bà.

Đọc các thư tịch cổ viết về Hai Bà Trưng, cảm giác đầu tiên thường có ở hầu hết mọi người là: chừng như tất cả chỉ mới dừng lại ở mức độ sơ bộ nhắc nhở về những sự kiện gắn liền với Hai Bà Trưng chứ chưa đủ để làm thoả mãn ý nguyện hiểu biết của hậu thế về hai nhân vật lịch sử kiệt xuất này. Sự bất nhất và sự giản lược của thư tịch cổ khiến cho người đọc lấy làm tiếc. Không còn cách nào khác, phương pháp phổ biến của giới sử học hiện đại vẫn là kết hợp chặt chẽ giữa việc phân tích và xử lý thư tịch cổ với việc tổ chức khảo sát trên một bình diện ngày càng rộng để tìm kiếm thêm các tài liệu có liên quan đến Hai Bà Trưng. Hai nguồn tài liệu mới hơn được các nhà sử học đặc biệt chú ý, đó là các tờ thần tích và truyền thuyết dân gian.

2. GIẢI MÃ MỘT CÁCH ĐẶT TÊN

Tất cả thư tịch cổ đều khẳng định rằng Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em người họ Trưng (mà họ Trưng lại nguyên là họ Lạc), nhưng trong thực tế thì cả họ Trưng và họ Lạc đều không có ở nước ta. Vả chăng, vào những năm đầu Công nguyên thì hầu như toàn bộ xã hội người Việt đều chỉ mới có tên chứ chưa có họ (Có thuyết nói rằng, thân mẫu của Hai Bà Trưng là Trần Thị Đoan, nhưng, sức thuyết phục của thuyết này rất thấp. Chúng tôi cho rằng đó chỉ là sự tự ý thêm thắt của người đời sau). Như vậy vấn đề quan trọng còn lại có lẽ chỉ là tìm cách giải mã ý nghĩa tên gọi của Hai Bà Trưng.

Theo chúng tôi, việc giải mã này chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta trở lại với đất quê hương của Hai Bà. Như trên đã nói, Hai Bà là con gái của Lạc tướng Mê Linh (Chữ Mê trong tên quê hương của Hai Bà cũng đọc là Mi. Bởi lẽ này, nhiều người phiên âm là Mi Linh. Tuy nhiên, cách phiên âm phổ biến nhất xưa nay vẫn là Mê Linh). Đất Mê Linh nguyên thuộc bộ Văn Lang (một trong 15 bộ hợp thành của nhà nước Văn Lang, gồm: Văn Lang, Giao Chỉ, Tân Hưng, Dương Tuyền, Vũ Định, Vũ Ninh, Chu Diên, Phúc Lộc, Ninh Hải, Lục Hải, Cửu Chân, Hoài Hoan, Cửu Đức, Việt Thường và Bình Văn), vào thời Tây Hán (206 TCN-08), đổi gọi là Phong Châu, thời Hậu Hán (25-220), là 1 trong số 12 huyện (Theo Phạm Việp (Trung Quốc) trong Hậu Hán Thư (Quận quốc chí) thì 12 huyện thuộc quận Giao Chỉ gồm: Long Biên, Luy Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đới, Kê Từ, Tây Vu, Chu Diên, Phong Khê và Vọng Hải) của quận Giao Chỉ. Thời thuộc Ngô (220-280), đất Mê Linh thuộc quận Tân Hưng. Đến thời Tấn (280-420) thì Tân Hưng đổi thành Tân Xương và Mê Linh là một trong số 6 huyện (Theo Phòng Kiều (Trung Quốc) trong Tấn Thư thì 6 huyện của quận Tân Xương (mới lập) gồm: Mê Linh, Gia Ninh, Ngô Định, Lâm Tây, Tây Đạo và Phong Sơn) của quận Tân Xương mới lập. Dưới thời Tuỳ (602-618), đất Vạn Xuân (quốc hiệu do Lý Nam Đế đặt ra từ năm 544) cộng với một phần lãnh thổ thuộc vương quốc của người Chăm được chia lại thành 6 quận (Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Tị Ảnh, Hải Âm và Lâm Ấp), Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ. Năm 679, khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tiến hành chia đặt lại các đơn vị hành chính, đất Mê Linh thuộc Phong Châu (1 trong số 12 châu ở vùng đồng bằng và trung du của An Nam Đô hộ phủ. 12 châu đó gồm: Giao Châu, Trường Châu, Phong Châu, Ái Châu, Diễn Châu, Phúc Lộc Châu, Hoan Châu, Lục Châu, Vũ An Châu, Vũ Nga Châu, Thang Châu và Chi Châu). Dưới thời Đinh (968-980), thời Tiền Lê (980-1009) và thời Lý (1010-1225), đất Mê Linh một phần thuộc về Phong Châu và một phần thuộc Quốc Oai Châu. Sang thời Trần (1226-1400), đất Mê Linh thuộc Lộ Quốc Oai (rồi Trấn Quốc Oai). Thời Hậu Lê, Mê Linh thuộc Thừa Tuyên Sơn Tây. Dưới thời nhà Nguyễn, đất Mê Linh thuộc tỉnh Sơn Tây. Tỉnh này có 5 phủ và 1 phân phủ (5 phủ của tỉnh Sơn Tây là: Quảng Oai, Quốc Oai, Vĩnh Tường, Lâm Thao và Đoan Hùng. 1 phân phủ là phân phủ Vĩnh Tường). Mê Linh thuộc phân phủ Vĩnh Tường. Bấy giờ, phân phủ Vĩnh Tường quản lĩnh 2 huyện Yên Lãng và Yên Lạc. Đất Mê Linh chủ yếu thuộc huyện Yên Lãng.

Đất Mê Linh nay tương ứng với cả một khu vực lãnh thổ rộng lớn. kéo dài từ Ba Vì đến Tam Đảo, tức là vùng tiếp giáp giữa Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Đây là nơi phát tích của một loạt những nền văn hoá khảo cổ học từ đầu thời đại đồ đá cũ. đến cuối thời đại đồ đồng. Đây cũng là đất dựng nghiệp của Hùng vương và cũng là trung tâm chính trị của nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của lịch sử nước nhà. Về kinh tế, Mê Linh được coi là đất tổ của nghề trồng dâu nuôi tằm.

Thực ra, ngay từ sơ kì của thời đồ đá mới (Với nền văn hoá tiêu biểu là Bắc Sơn, nay thuộc tỉnh Lạng Sơn), cư dân tiền sử trên đất nước ta đã biết tới kỹ thuật đan lát với trình độ khá cao. Đến trung kỳ của thời đồ đá mới (Với nền văn hoá tiêu hiểu là Bàu Tró, nay thuộc tỉnh Quảng Bình), nghề dệt đã xuất hiện. Tất nhiên, sợi dệt lúc đầu được khai thác chủ yếu từ vỏ cây. Sang thời sơ sử, nghề trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa được khai sinh mà người được tôn làm tổ sư của nghề này chính là Thiều Hoa - một trong những người con gái của Hùng Vương.

Truyền thuyết dân gian kể rằng: "Công chúa Thiều Hoa là người rất xinh đẹp, lại có biệt tài hiểu được và nói chuyện được với muôn loài. Ngày nào cô vào rừng chơi là ngày đó muôn loài lại nô nức chào đón. Chim hót cho cô nghe, bướm bay lượn khoe màu cho cô vui mắt. Một ngày nọ, nhân ngày hội của các loài bướm, Công chúa Thiều Hoa vào rừng. Hôm đó, Thiều Hoa bỗng thấy loài bướm nâu xấu xí chỉ lặng lẽ đậu trên cành cây quan sát chứ không hề bay lượn như những loài bướm khác. Nghe Công chúa Thiều Hoa hỏi, bướm nâu bèn trả lời rằng :

- Em không thích bay lượn. Không giống như tất cả những loài bướm khác, em đẻ trứng rồi trứng ấy nở thành sâu chứ chẳng nở thành bướm. Sâu ấy chỉ ăn lá dâu chớ không hề phá hoại mùa màng. Ăn lá dâu rồi sẽ nhả ra những sợi óng ánh rất đẹp...

Bướm nâu vừa kể vừa bay dẫn đường cho Thiều Hoa Công chúa đến một nơi có rất nhiều cây dâu. Ở đó, cô say mê ngắm những sợi nhỏ óng ánh được những con sâu cuốn lại thành từng cuốn, treo khắp cả rừng dâu. Và cô thận trọng gỡ từng sợi mỏng mảnh ấy ra, đan thành vải rồi đem may thành áo, khiến cho bất cứ ai trông thấy cũng phải ưa. Từ đấy, Thiều Hoa Công chúa đặt tên cho loài bướm nâu ấy là bướm ngài, trứng do bướm ngài đẻ ra thì gọi là trứng ngài, loài sâu nở ra từ trứng ngài thì gọi là tằm và những sợi óng ánh do tằm nhả ra thì gọi là sợi tơ. Vải dệt từ sợi tơ thì gọi là lụa. Để có thật nhiều lụa, Thiều Hoa Công chúa bèn tâu xin cha là Hùng Vương cho di dân đến bãi đất ven sông Hồng để làm nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Chính cô là người đã lập ra làng lụa Cổ Đô lừng danh (Làng Cổ Đô xưa nay thuộc xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).

Thật ra, trong kho tàng truyền thuyết dân gian, Thiều Hoa Công chúa không phải là người duy nhất mà chỉ là một trong số không ít những người được tôn làm tổ sư của nghề dệt, nhưng, điều đáng nói là phần lớn những bậc được tôn làm tổ sư của nghề dệt đều là người Mê Linh hoặc là người quê ở vùng kế cận đất Mê Linh. Nói khác hơn, quê hương Hai Bà Trưng cũng chính là quê hương của nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Ở đó, loại trứng ngài nào tốt thì được gọi là trứng chắc, loại nào kém hơn thì được gọi là trứng nhì. Tương tự như vậy, tổ kén nào tốt thì gọi là kén chắc, tổ nào kém hơn thì được gọi là kén nhì. Thuở xưa, khi mà chữ Hán chưa được truyền bá hoặc chưa có điều kiện để thấm sâu vào nhận thức của xã hội thì xu hướng chung của cách đặt tên người là rất giản dị và mộc mạc, thể hiện rất rõ sự gắn bó thiết tha với cuộc sống đời thường. Từ thực tế sinh động của xu hướng đặt tên chung này, chúng ta có thể suy luận rằng, Hai Bà Trưng chẳng những thuộc lớp người hoàn toàn chưa có họ mà ngay cả tên gọi cũng mang âm hưởng rất thân quen của nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt luạ (Theo thần tích làng Lâu Thượng, nay thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, thì gia đình Hai Bà Trưng chuyên làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Ở đó, tổ kén tốt thì gọi là kén chắc, kén kém hơn gọi là kén nhì, loại trứng ngài nào tốt thì được gọi là trứng chắc, loại nào kém hơn thì được gọi là trứng nhì... Vì lẽ này, cha mẹ đặt tên cho Hai Bà là Chắc và Nhì. Theo thần tích làng Hạ Lôi thì Trưng Trắc Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi). Những chữ trứng chắc và trứng nhì vốn để chỉ hai loại cao thấp khác nhau của trứng ngài, có lẽ đã được dùng làm tên cho hai chị em hơn kém nhau về tuổi tác. Sau này, tên gọi của Hai Bà được phiên âm Hán-Việt thành Trưng Trắc và Trưng Nhị. Như trên đã nói, xu hướng đặt tên người theo cách này còn tiếp tục được duy trì rất lâu dài ở những vùng chữ Hán chưa có điều kiện để thấm sâu vào nhận thức của xã hội. Khảo sát cách đặt tên người ở một số địa phương, chúng tôi còn thấy khá rõ dấu ấn của điều này. Ví dụ:

  • Cha mẹ làm ruộng thì thường đặt tên con là: Trần Văn Cày, Trần Văn Bừa, Trần Thị Liềm, Trần Thị Hái...
  • Cha mẹ làm nghề thợ mộc thì thường đặt tên con là: Lê Văn Dùi, Lê Văn Đục, Lê Thị Bào, Lê Thị Cưa...
  • Cha mẹ làm nghề thợ rèn thì thường đặt tên con là: Ngô Văn Bễ, Ngô Văn Đe, Ngô Thị Lò, Ngô Thị Than...

Giữa mênh mông cuộc đời, không ai phải chịu trách nhiệm về tên gọi hay dở của mình cả, nhưng bất cứ ai cũng phải chịu trách nhiệm về mọi hành trạng của chính mình. Ranh giới giữa tốt và xấu, giữa anh hùng và phản bội, giữa cao thượng và thấp hèn... chỉ bắt nguồn từ ý thức và năng lực chịu trách nhiệm về mọi hành trạng này.

Tóm lại, Trưng Trắc và Trưng Nhị không phải là họ và tên như suy đoán của sử cũ, Hai Bà Trưng cũng không phải nguyên là người họ Lạc như một số thư tịch cổ đã ghi. Thời của Hai Bà là thời dân ta chưa có họ. Ngay ở Trung Quốc, đến cả các bậc Thiên tử cũng chỉ mới thấy thư tịch cổ của Trung Quốc chép đầy đủ cả họ và tên từ thời nhà Chu. Tuy nhiên, hiện tượng này chưa phải là đã thật sự phổ biến: Sau đó, ngay cả hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thuỷ Hoàng cũng chưa hề có họ theo đúng nghĩa của từ này (Cha của Tần Thủy Hoàng là Tử Sở, vì từng phải làm con tin ở nước Triệu nên lấy họ Triệu chứ thực ra thì không phải là người họ Triệu).

Các dòng họ trong lịch sử nước ta xuất hiện muộn hơn ở Trung Quốc và trong bối cảnh chung đó, những nhân vật sống ở đầu Công nguyên như Trưng Trắc và Trưng Nhị, nếu chưa có họ thì cũng là lẽ tự nhiên. Một loạt các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, những người đã từng sát cánh chiến đấu đầy hiệu quả với Hai Bà và đã lập nên công trạng lớn như: Ả Di, Ả Tắc, Thánh Thiên, Bát Nàn, Cư Ông, Đô Dương, Ích Xương, Ông Trọng... cũng đều là những người hoàn toàn chưa có họ.

3. QUÊ HƯƠNG, GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG TRANG LÝ LỊCH ĐẦU TIÊN

Tác phẩm sử học cổ nhất của nước ta hiện còn lưu giữ được là Đại Việt sử lược viết: "Trưng Trắc người huyện Mê Linh". Bộ Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ: "Trưng Trắc là con của Lạc tướng huyện Mê Linh". Và bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng viết tương tự... Nói cách khác, các thư tịch cổ đều ghi rõ quê quán của Hai Bà Trưng là huyện Mê Linh. Như đã trình bày ở trên, đất Mê Linh xưa rất rộng lớn, vậy, sinh quán cụ thể của Hai Bà là vùng nào? Về vấn đề này, kết quả của các cuộc khảo sát thực tế đã cung cấp cho chúng ta những chi tiết mang tính bổ sung rất đáng chú ý, theo đó thì quê nội của Hai Bà là làng Hạ Lôi còn quê ngoại của Hai Bà là làng Nam Nguyễn.

Hạ Lôi nguyên xưa là một làng của huyện Yên Lãng, thuộc phân phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. Sau năm 1975, có lúc làng này thuộc huyện Mê Linh (Hà Nội), nay làng Hạ Lôi thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Hạ Lôi là một trong những làng có truyền thống trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa rất lâu đời. Thân sinh của Hai Bà từng là Lạc tướng của huyện Mê Linh. Bấy giờ, hầu như tất cả các Lạc tướng đều xuất thân từ đội ngũ quý tộc bộ lạc cũ và thân sinh của Hai Bà cũng là hậu duệ của đội ngũ này. Nhìn chung thì trong thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tuy đã hoàn toàn xoá bỏ được guồng máy nhà nước của Âu Lạc, nhưng chúng vẫn chưa thể nào chi phối được tất cả các hoạt động của tổ chức xã hội cơ sở. Trong bối cảnh đó, dư âm quyền lực của đội ngũ quý tộc cũ vẫn còn rất cao, và do vậy, ngoài uy tín cá nhân lớn lao của chính mình, Hai Bà Trưng còn may mắn được thừa hưởng uy tín của cha. Tuy qua đời sớm nhưng bản lĩnh và khí khái của Lạc tướng Mê Linh vẫn có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với con gái mình.

Làng Nam Nguyễn nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Nội. Truyền thuyết dân gian và các tờ thần tích ở đây đều khẳng định rằng, làng Nam Nguyễn là quê ngoại của Hai Bà Trưng. Làng Nam Nguyễn có Miếu Mèn là nơi thờ bà Man Thiện - thân nẫu của Hai Bà (Hai chữ Man Thiện có lẽ cũng không phải tên gọi mà chỉ là một vinh hiệu, nghĩa là người man di tốt. Đời sau vì kính phục mà gọi thế chăng?), có Mả Dạ (hay Mộ Dạ) tương truyền là mộ của bà Man Thiện. Trong tiếng Việt cổ, Dạ là từ dùng để chỉ người phụ nữ lớn tuổi mà được kính trọng, trái nghĩa với Ẩu là từ dùng để chỉ người phụ nữ trẻ tuổi mà bị coi thường. Ở huyện Ba Vì, ngoài Miếu Mèn và Mả Dạ thì đình làng Nam Nguyễn cũng là nơi kính thờ bà Man Thiện cùng Hai Bà Trưng và một số tướng lĩnh của Hai Bà. Hạ Lôi và Nam Nguyễn ngày nay là 2 làng thuộc 2 tỉnh khác nhau, nhưng khoảng cách 2 làng lại không xa lắm. Xưa Hạ Lôi và Nam Nguyễn đều thuộc Phong Châu , nay đều thuộc Hà Nội. Như trên đã nói, thân sinh Hai Bà Trưng là hậu duệ của một trong những quý tộc bộ lạc cũ. Từ khi đô hộ và nuôi mưu toan biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc, nhà Hán đã đặt các chức như huyện lệnh hoặc huyện thừa và trao chức này cho không ít quý tộc bộ lạc cũ. Tuy nhiên, dân đương thời vẫn thường gọi theo chức danh mang đậm dấu ấn tình cảm sâu sắc là Lạc tướng. Từ thực tế này, chúng ta có thể suy luận rằng, thân sinh của Hai Bà Trưng có lẽ nguyên là huyện lệnh (hoặc huyện thừa) của huyện Mê Linh nhưng vì giàu công đức nên được dân yêu quý gọi là Lạc tướng.

Cũng theo các truyền thuyết dân gian và khá nhiều tờ thần tích thì thân mẫu của Hai Bà Trưng là cháu chắt nhiều đời bên ngoại của Hùng Vương. Lúc bấy giờ, chế độ phụ quyền và gia đình phụ hệ tuy đã được thiết lập và khẳng định một cách chắc chắn từ khá lâu trước đó, nhưng ảnh hưởng của dòng họ ngoại (nhất là dòng họ ngoại thuộc hàng giàu quyền thế và ảnh hưởng xã hội rộng lớn như dòng Hùng Vương) vẫn còn rất mạnh mẽ. Nguồn gốc xuất thân đó đủ để thân mẫu của Hai Bà Trưng được dân đương thời bày tỏ sự kính trọng. Và hơn thế nữa, điều đáng nói là bà Man Thiện đã nuôi dạy hai người con gái của mình theo những tiêu chí đánh giá đại đạo làm người rất đặc biệt. Nhờ sự nuôi dạy của người mẹ khả kính ấy, những tố chất anh hùng đã liên tục được nhen nhúm trong tình cảm cũng như nhận thức của Hai Bà Trưng: thiết tha yêu nước và thương nòi, sục sôi lòng căm thù giặc, bừng bừng tinh thần thượng võ và ý thức nuôi chí cả để tập hợp bốn phương thiên hạ vùng dậy cứu nước và cứu dân (Truyền thuyết dân gian vùng Hà Tây trước đây có chuyện Đỗ Năng Tế, theo đó thì Đỗ Năng Tế người ở vùng nay thuộc huyện Quốc Oai, khoẻ mạnh, nhiều cơ mưu và đặc biệt là rất giỏi võ nghệ. Bà Man Thiện đã mời Đỗ Năng Tế về dạy cho hai người con gái của mình. Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Khắc Thuấn thì việc bà Man Thiện mời thầy dạy võ nghệ cho con là điều rất phù hợp với tất cả các truyền thuyết khác, nhưng nhân vật có đầy đủ họ và tên là Đỗ Năng Tế thì ắt hẳn là do người đời sau thêm vào cho dễ nghe chứ thời Hai Bà Trưng, dân ta chưa có họ). Các bộ chính sử của Trung Quốc cũng đã phải thừa nhận thực tế này. Hai Bà Trưng được thư tịch cổ của Trung Quốc mô tả là "rất hùng dũng", "can đảm và dũng lược" (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Ở chừng mực nhất định, chúng ta cũng có thể nói rằng, chính thân mẫu của Hai Bà Trưng là linh hồn đầu tiên của quá trình chuẩn bị khởi nghĩa. Biệt danh Man Thiện tuy rất giản dị nhưng cũng đủ để hàm chứa thái độ thực sự cảm phục và trân trọng của hậu thế đối với Bà. Hiện chưa rõ Trưng Trắc và Trưng Nhị sinh vào năm nào, nhưng căn cứ vào những sự kiện lớn trong cuộc đời của Hai Bà, chúng ta có thể ước đoán Hai Bà sinh vào khoảng cuối thời nhà Tân (Nhà Tân do Vương Mãng lập ra năm 08 và tồn tại trước sau tổng cộng 17 năm (08-25), truyền nối được 2 đời. Trong suốt thời gian tồn tại, nhà Tân đã thay nhà Tiền Hán để đô hộ nước ta). Trước khi dựng cờ khởi nghĩa (năm 40), Trưng Trắc đã kết hôn. Chồng của Trưng Trắc tên là Thi Sách (Hầu hết thư tịch cổ của ta và Trung Quốc đều chép tên chồng của Trưng Trắc là Thi Sách, duy chỉ có Lịch Đạo Nguyên (Trung Quốc) trong Thủy Kinh Chú (Quốc học Cơ bản Tùng thư, Thương Vụ Ấn Thư Quán) chép là Thi. Tờ 62, quyển 37 của Thủy Kinh Chú viết rằng: Chu Diên Lạc tướng tử danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê. Câu này chỉ có thể dịch là 'con trai của Lạc Tướng Chu Diên tên là Thi hỏi cưới con gái của Lạc Tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ'. Chữ sách ở đây phải dịch là hỏi cưới, không thể dịch thành tên là (Thi) Sách. Tuy nhiên trong sách này, chúng tôi vẫn theo cách gọi quen thuộc và phổ biến vốn có từ muôn đời nay mà chép tên chồng của Trưng Trắc là Thi Sách), con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên. Vào đầu thời Hậu Hán, địa giới của huyện Chu Diên là vùng ngày nay đại để tương ứng với khu vực kéo dài từ huyện Đan Phượng của Hà Nội về đến huyện Từ Liêm của Hà Nội. Như vậy, đất đai của huyện Chu Diên tiếp giáp với đất đai của huyện Mê Linh. Đây là 2 huyện lớn, nằm án ngữ ngay ở khu vực trung tâm lại có dân cư đông đúc và kinh tế rất phát đạt, do vậy, cuộc hôn nhân của hai gia đình Lạc tướng Chu Diên và Mê Linh dẫn đến sự liên kết tự nhiên, nhưng cũng rất chặt chẽ giữa 2 huyện có tiềm lực mạnh mẽ này đã khiến cho chính quyền đô hộ của nhà Hậu Hán đương thời dù đang hồi cường thịnh nhất vẫn luôn cảm thấy thật sự lo sợ. Đây vừa là thuận lợi rất to lớn lại cũng vừa là khó khăn rất nặng nề đối với Hai Bà Trưng trong sự nghiệp phát động nhân dân khắp cõi vùng lên khuấy nước chọc trời. Thuận lợi vì nhân dân (mà trước hết là nhân dân 2 huyện Chu Diên và Mê Linh) sẵn sàng đồng lòng ủng hộ Hai Bà, nhưng khó khăn là vì quân đô hộ thừa biết diễn tiến tất yếu của mọi việc nên nhất định sẽ chủ động đối phó.

4. DỰNG CỜ XƯỚNG NGHĨA

Một trong những nhân vật lừng danh của lịch sử Trung Quốc là Hán Quang Vũ. Hán Quang Vũ tên thật là Lưu Tú, cháu 9 đời của Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ, người sáng lập ra nhà Tiền Hán vào năm 206 TCN). Lưu Tú sinh năm 06 TCN, lật đổ nhà Tân và khai sinh ra nhà Hậu Hán (tức Đông Hán) vào năm 25, ở ngôi hoàng đế 32 năm (25-57), mất năm 57, hưởng thọ 63 tuổi. Thời Hán Quang Vũ, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với bốn phương rất rộng lớn và mạnh mẽ. Bởi lẽ này, sử sách của Trung Quốc đã không ngớt lời ca ngợi Hán Quang Vũ. Dựa vào uy thế đó, bọn quan lại đô hộ ở Âu Lạc đã ra sức tìm đủ mọi cách để vơ vét tài nguyên và của cải. Nổi bật nhất trong số những tên đô hộ tham tàn chính là Tô Định (Thái thú Giao Chỉ từ năm 34, tức là 9 năm sau khi nhà Hậu Hán được dựng lên).

Theo ghi chép của Đông quan Hán ký thì Thái thú Tô Định là tên rất khắc nghiệt, luôn mượn cớ nghiêm giữ phép nước để tìm cách hà hiếp dân lành và hễ "thấy tiền là giương mắt lên, thấy địch thì cụp mắt xuống" (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Lo sợ trước cuộc hôn nhân rất dễ có khả năng dẫn đến sự liên kết chặt chẽ giữa Chu Diên và Mê Linh, Tô Định đã giết chết Thi Sách và hy vọng là với đòn phủ đầu ấy, chính quyền đô hộ có thể nhanh chóng triệt tiêu hoàn toàn mầm mống của sự phản kháng nhất định sẽ bùng lên ở vùng đất trung tâm vốn có tiềm lực rất mạnh mẽ này (Về nhân vật Thi Sách, Thủy Kinh Chú của Lịch Đào Nguyên (Trung Quốc) viết rằng, chính Thi Sách đã cùng với Hai Bà Trưng khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách thống trị của nhà Hậu Hán. Tuy nhiên, phần lớn các thư tịch cổ (của ta và của Trung Quốc), đặc biệt là hàng loạt những truyền thuyết dân gian đều khẳng định rằng, Tô Định đã giết Thi Sách trước khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa). Nhưng Tô Định và quân đô hộ nhà Hậu Hán đã nhầm. Bà Man Thiện đã cùng con gấp rút chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa lớn. Quyết tâm của bà Man Thiện và của Hai Bà Trưng đã lập tức nhận được sự cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ của cả xã hội. Từ đất Mê Linh, một cơn bão lửa quật khởi đã nhanh chóng hình thành. Dân bốn phương nườm nượp kéo về Mê Linh để cùng tề tựu dưới ngọn cờ cứu nước của Hai Bà Trưng. Truyền thuyết dân gian vùng Hà Tây trước đây và một số bộ dã sử cho hay rằng, trước khi quả cảm phất cờ khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã long trọng tổ chức một cuộc hội thề rất lớn.tại vùng Hát Môn (cửa sông Hát, nay thuộc xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội). Theo Thiên Nam ngữ lục thì trước ba quân tướng sĩ, Hai Bà đã tuyên thệ quyết tâm thực hiện cho bằng được 4 mục tiêu:

Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.

Về cuộc hội thi tổ chức tại đất Hát Môn, Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1725-1780) (người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, đỗ Hoàng giáp năm 1766, làm quan được trải phong dần tới chức Đốc đồng, thân sinh của Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm. Ngô Thì Sĩ là tác giả của một loạt tác phẩm rất có giá trị như: Đại Việt Sử ký Tiền biên, Việt sử tiêu án, Ngọ Phong văn tập, Anh Ngôn thi tập, Nghệ An thi tập, Hải Đông chí lược...) viết rằng:

"Khi (Trưng) Trắc ra quân, dù chưa hết tang chồng nhưng Bà vẫn ăn mặc đẹp, các tướng hỏi, Bà bèn nói rằng:

- Việc binh phải tòng quyền, nếu cứ giữ lễ làm cho dung nhan xấu xí thì có khác gì là làm giảm nhuệ khí, cho nên, ta mặc đẹp như vậy để làm cho thế quân hùng tráng. Vả chăng, lũ giặc kia trông thấy, lòng sẽ không yên nên sẽ nhụt bớt chí khí chiến đấu, như thế thì ta sẽ thêm phần dễ thắng.

Mọi người nghe vậy đều vái tạ mà nói là họ không thể nào nghĩ kịp cách nghĩ của Bà" (Việt sử tiêu án - Trưng Nữ Vương).

Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa

Tháng 2 năm 40, tức là ngay sau cuộc hội thề ở Hát Môn. Hai Bà đã hạ lệnh xuất quân. Lực lượng ban đầu tuy chưa thực sự hùng hậu, nhưng khí thế và quyết tâm chiến đấu thì sục sôi bừng bừng. Mục tiêu đầu tiên và cũng là mục tiêu lớn nhất của nghĩa quân là tấn công vào trị sở của tên Thái thú Tô Định. Từ quê hương Mê Linh của mình, Hai Bà Trưng thúc quân ào ạt tiến thẳng về Long Biên, đi tới đâu nghĩa quân nhanh chóng đè bẹp sự phản kháng của lực lượng quân đô hộ tới đó, thế quân như thác đổ, không cách gì có thể ngăn cản được. Một khí thế đánh giặc cứu nước đã bừng bừng khắp nơi :

Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên

(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc sử diễn ca

Từ bất ngờ đến khiếp đảm. Tô Định đã phải hốt hoảng bỏ cả trị sở mà cao chạy xa bay. Một số truyền thuyết dân gian còn kể rằng: "Tô Định phải cạo tóc, cạo râu, vất bỏ ấn tín mà chạy" (Bấy giờ, một trong những tục lệ phổ biến của người Việt là cạo tóc cho nên Tô Định phải bắt chước làm theo như thế cho dễ chạy trốn).

Chính sử của Trung Quốc cũng đã phải buộc thừa nhận thực tế thảm hại này: "Năm Kiến Vũ thứ 16 (tức là năm 40 - NKT), người con gái ở Giao Chỉ là Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị làm phản, đánh phá sở trị các quận. Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, người rất hùng dũng, vợ của Thi sách ở huyện Chu Diên. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng pháp luật trói buộc, Trưng Trắc phẫn nộ, vì thế mà làm phản. Người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều nhất tề hưởng ứng. (Trưng Trắc) gồm chiếm được 65 thành rồi tự lập làm Vua. Thứ sử và thái thú Giao Chỉ chỉ còn giữ được mạng sống của mình mà thôi" (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán).

Các bộ chính sử của ta xưa cũng đã dành những lời rất trang trọng để chép về cuộc chiến đấu của nghĩa quân Hai Bà Trưng. Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê viết: "Tháng hai, mùa xuân năm Canh Tý, niên hiệu Kiến Vũ năm thứ 16 (tức năm 40 - NKT), Vua khổ vì Thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù (Tô) Định giết chồng mình, bèn cùng với em là (Trưng) Nhị nổi binh đánh hãm các trị sở của châu. (Tô) Định phải tháo chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm Vua" (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 3, tờ 2 a-b).

Quốc Sử Quán triều Nguyễn viết: "Lúc bấy giờ Thái Thú Tô Định cai trị tham lam và tàn bạo; giết mất chồng Bà. Bà bèn cùng với em gái là Trưng Nhị dấy quân, đánh hãm vào các châu lỵ. Tô Định phải bỏ chạy về Nam Hải. Quân Bà đi đến đâu như gió lướt đến đấy. Các tộc người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đầu nhất tề hưởng ứng. Bà lấy lại và dẹp yên được 65 thành ở Lĩnh Nam, tự xưng làm Vua, đóng đô ở Mê Linh. Các thứ sử và thái thú ở Giao Chỉ đều chỉ bảo toàn được thân mình thôi" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tiền biên, quyển 2, tờ 10. Tất cả thư tịch cổ của ta đều nói Hai Bà Trưng chiếm được 65 thành. Tuy nhiên, theo ghi chép của Hậu Hán Thư và một số thư tịch cổ thì bấy giờ mỗi huyện có một thành. Ở Nam Việt và Âu Lạc có tất cả 7 quận với 56 huyện thành cụ thể như sau: Giao Chỉ - 12 thành; Cửu Chân - 5 thành; Nhật Nam - 5 thành; Hợp Phố - 5 thành; Nam Hải - 7 thành; Thương Ngô - 11 thành; Uất Lâm - 11 thành. Như vậy, con số 65 thành chắc là có sự nhầm lẫn nào dó. Tuy nhiên, điều đáng nói nhất không phải là Hai Bà Trưng đã giành lại được bao nhiêu thành mà là ở chỗ nhân dân toàn cõi đã nhất tề đứng về phía Hai Bà).

Bấy giờ, không phải chỉ có quan quân đô hộ của nhà Hậu Hán mà ngay cả triều đình nhà Hậu Hán cũng phải hoảng hốt, bị động và lúng túng. Mãi đến hơn 2 năm trời sau thắng lợi vang dội của Hai Bà Trưng, triều đình Hán Quang Vũ mới đủ bình tĩnh để chuẩn bị kế hoạch xua quân sang đàn áp. Đúng như các sử gia xưa đã nói, nếu như nhờ chí cả và sự ủng hộ của nhân dân khắp cõi, nhờ sự phân tích sắc bén và quyết đoán thật chính xác. Hai Bà Trưng "dựng nước dễ như trở bàn tay", thì ngược lại, nhà Hậu Hán đã đi từ chỗ bất ngờ đến bất lực, hoàn toàn chịu bó tay trong một thời gian  dài. Đó chính là cơ hội cực kì thuận lợi để Hai Bà Trưng có thể xưng Vương và nhanh chóng xây dựng một chính quyền độc lập và tự chủ.

5. BA NĂM GÁNH VÁC SƠN HÀ

Ngay sau khi đập tan toàn bộ guồng máy chính quyền đô hộ của nhà Hậu Hán, Trưng Trắc đã xưng Vương, sử gọi thời trị vì của Bà là thời Trưng Nữ Vương (Truyền thuyết dân gian nói rằng, cả hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị cùng xưng Vương, nhưng tất cả các thư tịch cổ đều nói chỉ có Trưng Trắc xưng Vương). Như vậy, sau Thục Phán thì Trưng Trắc là nhân vật thứ hai của lịch sử nước ta đã chính thức (Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng, chữ Vương trong Hùng Vương thực ra chỉ là do đời sau tự ý thêm vào. Việc chính thức xưng Vương chỉ bắt đầu có từ Thục Phán (An Dương Vương) mà thôi) xưng Vương. Đây là một sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng mà nói theo cách nói của các tác giả Lịch sử Việt Nam, tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983) thì đây chính là "sự phủ định hiên ngang" đối với mưu đồ của chủ nghĩa đại Hán.

Thư tịch cổ chỉ chép việc Trưng Trắc xưng Vương vào mùa xuân năm Canh Tý (tức là năm 40) mà không hề cho biết gì về vương hiệu cũng như quốc hiệu và niên hiệu. Có lẽ lúc bấy giờ, vấn đề quan trọng hàng đầu vẫn là "lập lại nghiệp xưa họ Hùng", còn như tất cả những gì có liên quan khác thì chưa ai vội nghĩ tới. Về đất đóng đô của Trưng Vương, sử cũ nói rõ là Mê Linh:

"Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta"


(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc sử diễn ca)

Như trên đã nói, Mê Linh là tên gọi của cả một huyện lớn, kinh đô của Trưng Nữ Vương chỉ có thể được xây dựng trên một phần nhỏ nào đấy của đất huyện Mê Linh. Theo chúng tôi, rất có thể đó chính là làng Hạ Lôi, quê nội của Hai Bà, trị sở cũ của thân sinh Hai Bà là Lạc tướng Mê Linh. Tuy nhiên, ngoài những truyền thuyết mà dân gian còn truyền tụng, đất Mê Linh không còn lưu giữ được dấu tích vật chất nào về kinh đô của Trưng Nữ Vương.

Chính quyền Trưng Nữ Vương có lẽ là chính quyền của đội ngũ các tướng lĩnh - những người từng sát cánh chiến đấu với Hai Bà Trưng và đã lập được nhiều công lao. Không một thư tịch cổ nào cho biết về kết cấu cũng như tên các chức danh cụ thể của guồng máy chính quyền Trưng Nữ Vương, tuy nhiên sự thống nhất trong lời kể của kho tàng truyền thuyết cũng đủ để cho phép chúng ta có thể kết luận rằng, đội ngũ nữ quan (mà nguồn gốc chủ yếu là nữ tướng) chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Trong truyền thuyết dân gian, những nữ quan cao cấp nhất của Hai Bà Trưng thường được gọi là Công chúa (ví dụ như Bát Nàn Công chúa, Thánh Thiên Công chúa, Lê Chân Công chúa...). Cũng có khá nhiều ý kiến cho rằng đó là tước hiệu do Hai Bà Trưng chính thức phong tặng, song điều này chưa có gì để bảo đảm chắc chắn cả. Theo chúng tôi thì có lẽ đấy cũng chỉ là những vinh hiệu do người đời sau vì kính trọng mà thêm vào. Dưới đây là một vài con số về đội ngũ quan lại của chính quyền Trưng Nữ Vương :

  • Trong phạm vi ba tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ có đến 75 tướng của Hai Bà Trưng, gồm 56 nam và 19 nữ.
  • Theo thống kê của Chi hội Văn nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú (nay tách thành hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ) thì toàn tỉnh Vĩnh Phú cũ có đến 62 tướng của Hai Bà Trưng, gồm có 30 nam và 32 nữ.
  • Riêng tại khu vực nay thuộc Hà Nội cũng đã có tới 25 tướng của Hai Bà Trưng, gồm 18 nam và 7 nữ (Lịch sử Việt Nam, tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.266).

Tất nhiên, không phải bất cứ nữ tướng nào về sau cũng đều trở thành nữ quan và ngược lại, không phải bất nữ quan nào cũng đều xuất thân là nữ tướng, nhưng sự có mặt của khá đông nữ quan trong guồng máy chính quyền Trưng Nữ Vương là điều có thật. Nói khác hơn, bản thân cấu trúc của chính quyền Trưng Nữ Vương cũng đã thể hiện khá rõ vai trò và vị trí của người phụ nữ. Những người từng chứng tỏ ý chí và tài năng trong sự nghiệp giành độc lập đến đây lại tiếp tục thể hiện bản lĩnh và quyết tâm của mình trong sự nghiệp giữ độc lập.

Một vài thư tịch cổ của Trung Quốc cho biết rằng, chính quyền Trưng Nữ Vương đã thu thuế ở 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân (Lịch Đạo Nguyên (Trung Quốc). Thủy Kinh Chú. Quốc học Cơ bản Tùng thư, Thương Vụ Ấn Thư Quán). Có lẽ quận Nhật Nam do ở quá xa nên việc quản lý của chính quyền Trưng Nữ Vương không được chặt chẽ như tại 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Từ câu ghi chép ngắn gọn này, chúng ta có thể suy đoán rằng khởi nghĩa Hai Bà Trưng tuy giành thắng lợi trên một phạm vi địa lý rất rộng lớn, đại để là tương ứng với đất đai của cả Nam Việt và Âu Lạc cũ, nhưng chính quyền của Trưng Nữ Vương thì gần như chỉ mới quản lý vùng lãnh thổ áng chừng tương ứng với cương vực của Văn Lang - Âu Lạc cũ. Dấu ấn về cố quốc của An Dương Vương và xa hơn nữa là của các Vua Hùng đã in rất sâu trong nhận thức của Hai Bà Trưng, trong nhận thức phổ biến của xã hội đương thời.

Là một chính quyền rất non trẻ, ra đời trong bối cảnh của trình độ phát triển nói chung còn rất thấp kém và đặc biệt là trong tình thế phải thường xuyên sẵn sàng đối phó với những cuộc tấn công đàn áp của nhà Hậu Hán, cống hiến của triều đình Trưng Nữ Vương với ý nghĩa là những chính sách trị nước và những hiệu quả biến đối tích cực cụ thể đối với diện mạo quốc gia thì tất nhiên là còn rất khiêm nhượng. Tuy nhiên, công lao khơi dậy và thổi bùng lên ngọn lửa quật cường của chính quyền Trưng Nữ Vương đối với toàn thể cộng đồng người Việt là ngàn đời bất diệt. Từ ánh sáng của ngọn lửa rất thiêng liêng này, ý thức dân tộc của một bộ phận xã hội đã từng bước được xây dựng và củng cố, để rồi trên cơ sở đó dân tộc mới có thể thực sự hình thành. Khác với khá nhiều khu vực trên thế giới, bởi những quy định rất riêng của hoàn cảnh lịch sử, dân tộc Việt Nam không phải đợi đến thời cận đại mới bắt đầu hình thành, ngược lại đã được khai sinh từ rất sớm, từ ngay trong thời kỳ đầu của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhìn ở góc độ rất đặc biệt này, cống hiến của chính quyền Trưng Nữ Vương lại có thêm những ý nghĩa khác rất lớn lao. Từ sự nghiệp của Hai Bà Trưng, ý thức dân tộc của ít nhất là một bộ phận xã hội đã bước đầu được nâng cao, nền tảng ra đời của dân tộc dã xuất hiện. Nói theo sách nói của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái thì đấy chính là sự báo phục lại cũng chính là sự bá vương:

"Ba năm gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương
"

(Đại Nam Quốc sử diễn ca)

6. KẾT CỤC CỦA MỘT CUỘC ĐỌ SỨC KHÔNG CÂN XỨNG

Mãi đến hơn 2 năm sau ngày đại bại thảm hại của Thái thú Tô Định, triều đình Hán Quang Vũ mới đủ bình tĩnh và quyết tâm để xua quân đi đàn áp. Thực ra thì lúc bấy giờ, nhà Hậu Hán cũng đang gặp phải một số khó khăn, ví dụ:

  • Những cuộc nổi dậy liên tiếp của nhân dân Trung Quốc ở Thanh Châu, Từ Châu, U Châu và Ký Châu (nay thuộc 2 tỉnh Sơn Đông và Hà Bắc của Trung Quốc).
  • Cuộc khởi binh khá lớn do Lý Quảng cầm đầu ở vùng Hoãn Thành (nay thuộc tỉnh An Huy của Trung Quốc).
  • Những cuộc đấu tranh của nông dân Trung Quốc ở Ích Châu (nay thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc).

Nhưng đó chưa phải là tất cả những nguyên nhân, càng chưa phải là tất cả những nguyên nhân sâu xa nhất. Điều bận tâm nhất đối với Hán Quang Vũ chính là sức mạnh của toàn thể nhân dân Âu Lạc do Hai Bà Trưng tập hợp và lãnh đạo. Nếu không cân nhắc kỹ, thất bại của cuộc tấn công đàn áp Hai Bà Trưng (nếu xảy ra) rất có thể sẽ dẫn đến một loạt những phản ứng dây chuyền hết sức bất lợi cho chính quyền của nhà Hậu Hán còn non trẻ (Hậu Hán hay Đông Hán thành lập năm 25, đến đây mới chỉ được 15 năm). Xuất phát từ thực tế này, Hán Quang Vũ đã có 2 quyết định rất quan trọng. Một là xuống chiếu cho các chính quyền địa phương, nhất là các chính quyền địa phương ở phía Nam Trung Quốc, giáp giới với Âu Lạc phải tích cực "sắm sửa xe thuyền, sửa sang cầu đường để thông miền khe núi và tích trữ lương thực" (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Hai là sai viên lão tướng đày dạn kinh nghiệm trận mạc, khét tiếng tàn bạo và thiện chiến là Mã Viện làm tổng chỉ huy lực lượng gồm khoảng 2 vạn tên đi đàn áp. Lúc bấy giờ, Mã Viện tuy đã 58 tuổi nhưng vẫn còn rất cường tráng. Chính Mã Viện là kẻ đã đàn áp đẫm máu cuộc khởi binh của nông dân vùng Hoãn Thành do Lý Quảng cầm đầu. Mùa hè năm Nhâm Dần (tức là năm 42) (Về thời điểm bắt đầu của cuộc đàn áp này, thư tịch cổ của Trung Quốc chép không đồng nhất. Ngay trong cùng tác phẩm Hậu Hán Thư, Phạm Việp cũng tỏ ra bất nhất. Chúng tôi dựa vào chi tiết Mã Viện được phong làm Phục Ba Tướng quân vào tháng 4 năm 42 để viết như trên), cuộc đàn áp với quy mô rất lớn và quyết tâm rất cao của triều đình Hán Quang Vũ bắt đầu:

  • Nắm quyền tổng chỉ huy quân Đông Hán là Phục Ba Tướng quân Mã Viện (Mã Viện được Hán Quang Vũ phong làm Phục Ba Tướng quân. Chức vụ quan trọng này trước đó hơn 150 năm (năm 112 TCN) chỉ mới có một người duy nhất được triều đình Hán Vũ Đế (141 TCN-87 TCN) tấn phong là Lộ Bác Đức).
  • Đệ nhất phó tướng là Phiêu kỵ Tướng quân Đoàn Chí (kẻ đã cùng với Mã Viện cầm quân đi đàn áp Lý Quảng và giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Hoãn Thành), trực tiếp trông coi các đơn vị thuỷ binh.
  • Đệ nhị phó tướng là Lưu Long (nguyên là Thái thú Nam Quận, vùng Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay) nhưng vì phạm gian dối nên bị bãi chức, đến đây, hắn được ra làm quan. Trước khi xuất quân, Lưu Long được phong làm Trung lang tướng).

Thư tịch cổ của Trung Quốc (Hậu Hán Thư, Thủy Kinh Chú) cho hay, triều đình Hán Quang Vũ đã huy động đến 20.000 quân, xe thuyền lớn nhỏ 2.000 chiếc và đông đảo dân phu đi phục dịch. Tất cả các cánh quân thuỷ bộ của giặc cùng tập trung tại Hợp Phố (nay thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc) để phối hợp hành quân và tác chiến với nhau. Nhưng giặc chưa kịp tràn xuống Âu Lạc thì Phó tướng Phiêu kỵ Tướng quân là Đoàn Chí đã chết (Hậu Hán Thư nói là Đoàn Chí chết vì bệnh, tuy nhiên truyền thuyết dân gian và đặc biệt là theo thần tích đình Ngọc Lâm (nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) thì chính Thánh Thiên Công chúa đã chủ động đem quân lên đánh phá giặc tại Hợp Phố, khiến cho Đoàn Chí phải chống đỡ rất mệt mỏi. Cuối cùng, hắn lâm bệnh mà mất). Trước tình huống đó, Mã Viện đành phải trực tiếp chỉ huy cả 2 đạo quân thuỷ bộ tiến thẳng vào khu vực Cổ Loa và vùng phụ cận. So với quân số của Hai Bà Trưng thì rõ ràng đây thực sự là một lực lượng áp đảo. Như trên đã nói, vào cuối thời nhà Tiền Hán, quận Giao Chỉ có 746.237 suất đinh, quận Cửu Chân có 166.113 suất đinh và quận Nhật Nam có 69.485 suất đinh, tổng cộng cả 3 quận là 981.835 suất đinh. Từ cuối thời nhà Tiền Hán sang đầu thời nhà Hậu Hán (thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa và giành được chính quyền) trước sau chỉ cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, cho nên, số suất đinh tăng lên không đáng kể. Cứ giả dụ (dẫu trong thực tế thì không thể như thế) rằng tất cả mọi suất đinh đều là lính thì thử thách đối với Trưng Nữ Vương cũng cực kỳ cam go.

Quân sĩ của Trưng Nữ Vương tuy có chính nghĩa và đặc biệt là có tinh thần chiến đấu rất cao, nhưng kinh nghiệm chiến đấu còn rất non kém, tổ chức do chỉ mới là bước đầu nền còn rất sơ sài, trang bị còn quá thô sơ, trình độ võ nghệ cũng còn rất thấp, cho nên năng lực và hiệu quả trận mạc chưa thể sánh với đội quân chính quy đông đảo và thiện chiến của nhà Hậu Hán do Mã Viện cầm đầu. Nói khác hơn, đây là một cuộc đọ sức hoàn toàn không cân xứng.

Từ kinh đô Mê Linh, Trưng Nữ Vương đã hạ lệnh cho đông đảo quân sĩ của mình ồ ạt tiến thẳng về vùng Cổ Loa (nay thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội) và vùng hồ Lãng Bạc (trước đây, nhiều người nhầm tưởng Lãng Bạc là Hồ Tây. Theo chúng tôi thì Lãng Bạc là vùng đất trũng, nay tương ứng với đất đai các huyện ở phía Đông nam của Bắc Ninh, tiếp giáp với Hà Nội, Hưng Yên và Hải Dương) để nghênh chiến với hy vọng sẽ chặn đứng được cuộc tấn công của Mã Viện. Và một trận ác chiến đã diễn ra tại khu vực này. Bấy giờ đang là mùa hè rất nóng nực, thời tiết của miền nhiệt đới rất khắc nghiệt đã góp phần gây cho quân Mã Viện không ít những khó khăn. Chính Mã Viện cũng đã phải công khai thừa nhận rằng: "Lúc ta đang ở giữa Lãng Bạc và Tây Vu, giặc chưa bị tiêu diệt mà trời ở dưới thì nước lụt, ở trên thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt, ngẩng đầu trông lên thì thấy cả đến chim diều hâu đang bay cũng phải rơi xuống nước mà chết." (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán. Tác giả Nguyễn Khắc Thuần xin chú thích thêm rằng, Tây Vu là khu vực nay đại để tương ứng với Từ Sơn và Tiên Du của tỉnh Bắc Ninh). Tuy gặp rất nhiều khó khăn nhưng nhờ có quân đông và kinh nghiệm dồi dào. Mã Viện đã lần lượt đẩy lùi được tất cả các đợt tấn công của quân sĩ Hai Bà. Tổn thất của lực lượng Trưng Nữ Vương rất nặng nề và tình thế không cho phép Hai Bà kéo dài cuộc đối đầu đầy bất lợi ở khu vực Cổ Loa - Lãng Bạc được nữa. Trưng Nữ Vương quyết định lui quân về khu vực Cấm Khê (nay đại để tương ứng với vùng thung lũng Suối Vàng ở dưới chân núi Vua Bà (thuộc dãy Ba Vì). Vùng này lưng dựa núi, mặt trông ra 3 dòng sông lớn là sông Đà, sông Hồng và sông Đáy, lại có đường hiểm thông vào Cửu Chân. Đây là vùng đệm giữa đồng bằng Bắc Bộ với Trung Bộ, rất thuận tiện cho việc tổ chức phòng ngự lâu dài) để tính kế tổ chức phòng ngự và chiến đấu lâu dài.
 
Từ vùng Cổ Loa - Lãng Bạc, Mã Viện nhân đà thắng thế đã thúc quân tiến gấp đến Cấm Khê. Tại đây, chúng đã vấp phải sức chống cự rất bền bỉ, ngoan cường và cũng rất lợi hại của quân sĩ Trưng Nữ Vương. Tuy nhiên, chí lớn và quyết tâm cao của quân sĩ Hai Bà không đủ để bù cho sự thua kém về thực lực và kết cục tất yếu của cuộc đọ sức không cân xứng này là Mã Viện đã thắng, Hai Bà Trưng đã anh dũng hy sinh trên chiến trường. Về cái chết oanh liệt của Hai Bà Trưng, phần lớn các tài liệu của ta đều nói Hai Bà đã nhảy xuống sông tự tử:

"Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế phải liều với sông"


(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc sử diễn ca)

Các bộ chính sử của Trung Quốc (tất nhiên là chép theo lối khoa trương chiến thắng của chúng) đều nói rằng, Hai Bà bị tướng giặc là Mã Viện bắt sống, rồi bị chặt lấy đâu đưa về kinh đô của nhà Hán là Lạc Dương (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán. Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm rằng, bản thân Hậu Hán Thư cũng chép không thống nhất. Ở phần Lưu Long truyện thì nói chính Lưu Long đã bắt dược Trưng Nhị ở cửa Cấm Khê, nhưng ở phần Mã Viện truyện lại nói Mã Viện giết chết được cả Trưng Trắc và Trưng Nhị rồi chặt đầu đưa về Lạc Dương). Truyền thuyết dân gian vùng Hà Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ thì kể rằng, Hai Bà “lên núi”, “xuống nước” hoặc là “hoá” (những từ khác nhau chỉ sự qua đời) vào ngày mồng 8 tháng 3 năm Quý Mão (tức năm 43) (Ở đền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, lễ hội chính để tưởng niệm Hai Bà được tổ chức vào ngày 8 tháng 3 và hiện nay, cả nước cùng tổ chức tưởng niệm Hai Bà Trưng vào ngày này. Ở Đồng Nhân (Hà Nội) cũng có đền thờ Hai Bà Trưng. Lễ tắm tượng ở đền này được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng 2 hằng năm. Viện lẽ đền Đồng Nhân ở ngay trong lòng Thủ đô, nên cũng có người đề nghị lấy ngày mồng 6 tháng 2 làm ngày tưởng niệm Hai Bà Trưng chính thức chung cho cả nước. Tuy nhiên, ý kiến này không nhận được sự đồng tình của xã hội). Tuy nhiên, dù tạ thế theo bất cứ một trong những cách nào như sử sách (của ta và Trung Quốc) xưa đã ghi chép hay như truyền thuyết đã kể lại thì chúng ta vẫn hoàn toàn có thể nói rằng, Hai Bà Trưng đã anh dũng hy sinh trên chiến trường. Hai Bà đã hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp đánh đuổi quân xâm lăng và tái lập “nghiệp xưa họ Hùng”. Trong những lễ hội tưởng niệm Hai Bà Trưng và nghĩa sĩ của Hai Bà, các thế hệ xưa thường rất kiêng kỵ dùng những vật dụng có màu đỏ vì cho rằng đó là màu máu, màu gợi nhớ nỗi đau thương vô hạn của cả dân tộc ta trước cuộc đàn áp dã man của Mã Viện.

7. MUÔN ĐỜI CÒN MÃI DANH THƠM

Đền thờ Hai Bà Trưng - Mê Linh, Hà Nội
Sau khi đàn áp một cách đẫm máu toàn bộ lực lượng của Hai Bà Trưng, tương truyền, Mã Viện đã mượn cớ tịch thu vũ khí trong nhân dân để gom góp những hiện vật bằng đồng về làm giàu cho mình và làm thêm 2 việc. Một là đúc một con ngựa theo đúng mẫu mã do chính Mã Viện vẽ ra. Truyền thuyết nói rằng, Mã Viện là tên rất sành về các giống ngựa, chỉ cần nghe tiếng hí không thôi là hắn đã có thể đoán đúng giống ngựa ấy sinh ra ở vùng nào và mỗi ngày có thể chạy được bao nhiêu dặm. Hai là đúc một chiếc trụ đồng, trên có khắc ghi công trạng của hắn và một lời đe doạ rất xấc xược chỉ gồm vỏn vẹn có 6 chữ Hán (phiên âm) như sau: “Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” (Cột đồng mà gãy, Giao Chỉ mất nòi). Cũng tương truyền, bất cứ người Giao Chỉ nào hễ có việc đi qua chỗ cắm cột đồng cũng đều công khai bày tỏ thái độ phản kháng rõ ràng của mình bằng cách lấy đá ném vào. Một người ném rồi nhiều người ném, một đời ném rồi nhiễu đời ném, cứ thế kéo dài mãi, kết quả cuối cùng là cột đồng cùng với lời đe doạ ngạo mạn và ngông cuồng của Mã Viện đã hoàn toàn bị chôn vùi, khiến cho đến nay không ai còn có thể tìm thấy được nữa. Cột đồng của Mã Viện đã vĩnh viễn bị chôn vùi dưới lòng đất sâu, ngược lại, tiếng thơm về sự nghiệp cứu nước của hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị thì tồn tại bất diệt với giang sơn yêu quý này.

Những cây đại bút của ngàn xưa đã trang trọng dùng không biết bao nhiêu những lời hùng tráng, tốt đẹp và kiêu hãnh nhất để viết về cuộc đời và sự nghiệp phi thường của Hai Bà Trưng. Dưới đây là một vài trích lục các đoạn đánh giá cụ thể rút từ các bộ chính sử xưa :

“Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều nhất tề hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay. Xem thế cũng đủ biết hình thế đất Việt ta đủ để có thể dựng được nghiệp bá vương... Trong khoảng hơn 1000 năm, bọn đàn ông chỉ biết cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi, có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy" (Lời bàn của Bảng nhãn Lê Văn Hưu. Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 3, tờ 3-a).

"Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, chỉ vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ đã được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ có lúc dựng nước xưng vương đâu... Đàn bà mà có đức hạnh của kẻ sĩ, khí chất anh dũng trong khoảng trời đất không vì tấm thân đã mất mà có thể kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi dựng lấy khí phách ngay thẳng chính đại ấy ư" (Lời bàn của Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên. Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 3, tờ 3-b và 4-a).

“Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động triều đình nhà Hán. Dẫu rằng thế cô lực yếu và không gặp được thời thế, nhưng cũng đủ để làm phấn khích lòng người và lưu danh trong sử sách. Kìa những bọn tu mi nam tử mà cam chịu khép nép làm tôi mọi, thật đúng là mặt dày mày dạn và đáng chết thẹn lắm thay” (Lời phê của các sử gia trong Quốc Sử Quán triều Nguyền. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tiền biên, quyển 2, tờ 12).

“Than ôi, hồng nhan trẻ đẹp xưa nay đã có biết bao người sự nghiệp bị chôn vùi, nhưng, từ Nữ Oa làm việc động trời đến giờ chỉ có Hai Bà Trưng nữa mà thôi” (Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ. Việt sử tiêu án).

Trên khắp đất nước ta, đền thờ Hai Bà Trưng được dựng lên ở khá nhiều nơi (Chỉ tính riêng trong 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ đã có tới 51 địa điểm thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của Hai Bà. Tương tự như thế, chỉ tính riêng tại Hà Nội cũng đã có tới 24 địa điểm thờ Hai Bà Trưng và những tướng lĩnh của Hai Bà), tên của Hai Bà Trưng được trân trọng đặt cho hàng loạt những đường phố của các thành phố, thị xã và thị trấn. Ngay trên đất Trung Quốc, đền thờ Hai Bà Trưng cũng đã được dựng lên bởi hậu duệ của những người từng tham gia cuộc khởi nghĩa do Hai Bà khởi xướng và lãnh đạo (Ví dụ Miếu Bà Trắc (tức miếu thờ bà Trưng Trắc) ở phía Nam hồ Động Đình, nay thuộc tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc).

Như vậy là trong toàn bộ tiến trình giữ nước trường kỳ và gian khổ, Hai Bà Trưng là những bậc nữ danh tướng đầu tiên đã có công giương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa bành trướng đại Hán. Sự nghiệp của Hai Bà đã để lại những dấu ấn rất sâu sắc trong tình cảm và nhận thức về lịch sử chống xâm lăng anh dũng và ngoan cường của cả dân tộc ta, mở ra những trang sử hào hùng về truyền thống “anh hùng - bất khuất - trung hậu - đảm đang” của phụ nữ Việt Nam. Chừng như hai câu kết trong bài vịnh bức ảnh O du kích nhỏ của Tố Hữu còn có ý nghĩa như một lời tổng kết gọn gàng về truyền thống đặc biệt này:

"Ra thế, to gan hơn béo bụng,
Anh hùng đâu cứ phải mày râu".