In bài này
Trần Thủ Độ (1194 - 1264)
Chủ Nhật, 04/10/2009 - 2:57 PM
"(Trần) Thủ Độ tuy chỉ là Tể tướng, nhưng mọi việc trong triều đình, không việc gì mà ông không để mắt chú ý tới, vì thế, đã có công giúp nên vương nghiệp và để tiếng tốt cho đến tận lúc qua đời. (Vua Trần) Thái Tông có làm bài văn bia đặt ở nơi thờ ông ngay khi ông còn sống để tỏ lòng đặc biệt quý mến" - Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 5, tờ 29-a)

I. VÀI DÒNG VẮN TẮT VỀ CUỘC ĐỜI

Trần Thủ Độ tuy không phải là vua, nhưng, chính ông là người đã biết triệt để lợi dụng sự tàn tạ không cách gì có thế cứu vãn nổi của triều Lý để rồi khôn khéo chuẩn bị cả về dư luận và tổ chức, đưa họ Trần lên nắm giữ vũ đài chính trị kể từ năm 1226. Ông là người có công khai sinh ra triều Trần, có công củng cố địa vị và quyền lực của triều Trần, có công trong sự nghiệp giữ nước... nhưng, dẫu cẩn trọng sưu tầm tất cả những ghi chép tản mạn của sử cũ, chúng ta cũng chỉ có thể có được những dòng rất vắn tắt về lý lịch cuộc đời của ông mà thôi.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho hay, Trần Thủ Độ là chú họ của vua Trần Thái Tông. Trần Thái Tông là con của Trần Thừa. Trần Thừa là con Trần Lý. Và, Trần Lý là con của Trần Hấp. Sách trên cũng cho hay, về sau, Trần Thủ Độ lấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung, lại nói Trần Thị Dung vốn là chị họ của Trần Thủ Độ, như vậy cũng có thể suy ra rằng, Trần Thủ Độ là con một người em nào đó của Trần Lý và là cháu nội của Trần Hấp. Nói khác hơn, tuy chỉ hơn vua Trần Thái Tông 24  tuổi nhưng Trần Thủ Độ là vai ông chú chứ không phải chỉ là vai chú của vua Trần Thái Tông.

Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) tại làng Lưu Xá, phủ Ngự Thiên (nay là xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), mất năm Giáp íy (1264), hưởng thọ 70 tuổi. Thời trai trẻ, Trần Thủ Độ kiếm sống bằng nghề chài lưới. Ông lớn lên đúng vào lúc cơ đồ của họ Lý đổ nát ngày một nhanh chóng. Nội chiến xảy ra triền miên, vua Lý không còn khả năng điều khiển đất nước, thậm chí không còn cả khả năng điều khiển hoạt động của triều đình. Hoàng tộc hoang mang. Thái tử của nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Hạo Sảm phải bỏ cả hoàng thành mà chạy trốn. Năm Kỷ Tỵ (1209), Lý Hạo Sảm chạy đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ).

“Hoàng Thái tử (Lý Hạo Sảm) chạy đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp, nghe tiếng con gái của Trần Lý (là Trần Thị Dung - NKT) có nhan sắc đẹp, bèn lấy làm vợ” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 4, tờ 26-a). 

Khu lăng mộ Thái sư Trần Thủ Độ tại làng Ngừ, xã Liên Hiệp. Hưng Hà, Thái Bình.

Năm ấy, Lý Hạo Sảm mới 15 tuổi. Bởi cuộc hôn nhân này, họ Trần giàu có ở Hải Ấp bắt đầu tham gia chính sự. Trần Lý được phong làm Minh Tự công, em vợ của Trần Lý là Tô Trung Từ được phong làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Tháng 3 năm Canh Ngọ (1210), khi Trần Lý bị chết trong loạn lạc con của Trần Lý là Trần Tự Khánh được phong làm Thuận Lưu bá và chỉ hơn một năm sau thì được phong làm Chương Thành hầu (Tháng chạp năm Quý Mùi, Trần Tự Khánh mất, được nhà Lý truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương). Vào tháng chạp năm Bính Tý (1216), đến lượt anh trai của Trần Tự Khánh là Trần Thừa (Trần Thừa là thân phụ của vua Trần Thái Tông. Sau, Trần Thừa được tôn làm Thượng Hoàng) được phong làm Nội thị Phán thủ. Khi Trần Tự Khánh mất, Trần Thừa được phong làm Phụ quốc Thái úy, được phép vào chầu vua Lý mà không phải xưng tên.

Hiện tại, chúng ta chưa biết Trần Thủ Độ thực sự ra làm quan kể từ lúc nào, nhưng xét diễn biến chung của các sự kiện kể từ khi Lý Hạo Sảm chạy về Hải Ấp, thì có thể ước đoán rằng, Trần Thủ Độ nhận chức tước của triều Lý gần như đồng thời với Trần Thừa (tức là khoảng năm 1216). Năm 1224, Trần Thủ Độ là quan Điện tiền Chỉ huy sứ, cầm đầu tất cả quân Cấm vệ của triều đình. Xét về trật tự thứ bậc, đó chưa phải là chức quan có hàm tước thuộc hàng cao nhất, nhưng trong thực tế của thời loạn lạc lúc bấy giờ, đó lại chính là chức có nhiều quyền uy mạnh mẽ hơn cả. Dựa vào quân đội, Trần Thủ Độ đã từng bước nâng cao vị trí của mình và khôn khéo loại dần các thế lực đối nghịch. Từ năm Tân Tỵ (1221) trở đi, khi Lý Hạo Sảm (tức vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224)) bắt đầu nhuốm bệnh điên, Trần Thủ Độ là người khuynh loát cả triều đình. Nếu các nhân vật khác của họ Trần như Trần Lý, Trần Tự Khánh, Trần Thừa... đã đồng lòng hợp sức, đưa họ Trần lên vị trí của một dòng họ có thế lực mạnh trong triều đình nhà Lý, thì Trần Thủ Độ là người đã đặt nền tảng chắc chắn cho việc đưa họ Trần lên thay họ Lý trị vì thiên hạ. Trong hàng loạt những việc làm khác nhau của Trần Thủ Độ, chúng ta thấy có mấy việc nổi bật sau đây:

  • Âm thầm tác động một cách mạnh mẽ và liên tục, khiến vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho thứ nữ là Chiêu Thánh Công chúa (Vua Lý Huệ Tông chỉ có 2 Công chúa là Thuận Thiên Công chúa (sinh tháng 6 năm Bính Tý, 1216) và Chiêu Thánh Công chúa (sinh tháng 9 năm Mậu Dần, 1218).) vào tháng 10 năm Giáp Thân (1224). Chiêu Thánh Công chúa lên ngôi lúc mới được 6 tuổi. Đó là vua Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225).
  • Sau khi Chiêu Thánh Công chúa được tôn lên ngôi vua, lập tức Trần Thủ Độ ồ ạt đưa người của họ Trần vào chiếm giữ các chức vụ thân cận nhất. Sử cũ chép rằng:

“Quan Điện tiền Chỉ huy sứ là Trần Thủ Độ coi giữ tất cả các việc quân cơ trong ngoài. Cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập được làm Cận thị Thự lục cục Chi hậu, Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh (người về sau làm vua, miếu hiệu là Trần Thái Tông) làm Chính thủ” (Đại việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 4, tờ 32-b và 33-a).

  • Cũng ngay sau khi Chiêu Thánh Công chúa được tôn lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã gấp rút thực hiện kế hoạch lợi dụng hôn nhân để giành ngôi của họ Lý. Trước đó, con trai trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu đã được Trần Thủ Độ bố trí để kết hôn với Trưởng Công chúa của vua Lý Huệ Tông là Thuận Thiên (Thuận Thiên Công chúa sinh vào tháng 6 năm Bính Tý (1216) kết hôn với Trần Liễu trước năm 1224, nhưng chưa rõ là năm nào. Năm Đinh Dậu (1237), Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường Thuận Thiên Công Chúa (lúc này đã có thai 3 tháng) cho Trần Cảnh (bấy giờ đã 20 tuổi và làm vua được 12 năm). Đó là cuộc tảo hôn thứ nhất giữa hai họ Lý-Trần. Cuối năm Giáp Thân (1224), một lần nữa, Trần Thủ Độ lại khôn khéo bố trí để con thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh kết hôn với Chiêu Thánh Công chúa (bấy giờ đã là vua: vua Lý Chiêu Hoàng). Đó là cuộc tảo hôn lần thứ hai giữa hai họ Lý-Trần và chính cuộc tảo hôn lần thứ hai này đã góp phần rất quan trọng vào việc làm thay đổi hoàn toàn ngôi vua của Đại Việt. Các sử gia xưa đã mô tả đại lược về cuộc tảo hôn này như sau:

“(Trần) Cảnh bấy giờ mới được 8 tuổi, lo đứng ngoài cửa cung để chầu hầu nhà vua. Một hôm (Trần Cảnh) phải bưng nước cho vua rửa, nhân đó mới được vào trong. (Vua Lý) Chiêu Hoàng vừa trông thấy đã lấy làm ưa, cho nên mỗi khi dạo chơi vào ban đêm, vẫn cho gọi (Trần) Cảnh đến đi cùng. Thấy (Trần) Cảnh ở chỗ tối thì thân đến nô đùa, hoặc nắm tóc, hoặc đứng chèn lên bóng.

Một hôm, (Trần) Cảnh bưng chậu nước đứng hầu (vua Lý) Chiêu Hoàng rửa mặt. Vua lấy tay vốc nước, tát ướt hết cả mặt của (Trần) Cảnh rối cười và chọc ghẹo. Khi (Trần) Cảnh bưng khăn lau thì lấy khăn ném cho (Trần) Cảnh. (Trần) Cảnh không dám nói gì cả, chỉ về ngầm thưa với (Trần) Thủ Độ. (Trần) Thủ Độ nói rằng:

- Nếu thực như thế thì họ ta sẽ thành hoàng tộc hay là sẽ bị diệt hết đây?

Lại có hôm, (vua Lý) Chiêu Hoàng lấy khăn ném cho (Trần) Cảnh. (Trần) Cảnh lạy và thưa rằng:

- Bệ hạ có tha tội cho thần không? Có thế thần mới xin vâng mệnh.

(Lý) Chiêu Hoàng vừa cười vừa nói:

- Tha tội cho ngươi ư? Thế ra nay nhà ngươi đã biết nói khôn rồi đấy.

(Trần) Cảnh về thưa lại với (Trần) Thủ Độ. (Trần) Thủ Độ sợ việc này mà tiết lộ ra thì cả họ sẽ bị giết hết, bởi vậy, đem gia quyến vào trong cung cấm. (Trần) Thủ Độ sai đóng chặt hết các cửa thành và cửa cung, canh giữ cẩn mật, không cho các quan vào chầu hầu. (Trần) Thủ Độ lại loan báo:

- Bệ hạ nay đã có chồng rồi.

Các quan ai nấy đều vâng lời, xin chọn ngày để vào chầu. Tháng ấy (tháng 10, năm 1224 - NKT), ngày 21, các quan đều vào lạy mừng. (Nhà vua) xuống chiếu rằng:

- Nước Nam Việt ta, từ xưa đã có đế vương trị vì. Triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có được bốn biển, các bậc tiên thánh nối nhau giữ ngôi hơn 200 năm. Nay, Thượng Hoàng (chỉ vua Lý Huệ Tông - NKT) có bệnh, không có con trai nối dõi, khiến cho thế nước nghiêng ngửa nguy nan. Trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, thực là việc từ xưa chưa từng có. Khốn thay, trẫm là nữ hoàng, tài đức đều thiếu, không ai giúp đỡ, trong khi đó thì giặc cướp nổi lên như ong, không sao giữ nổi ngôi báu nặng nề được. Trẫm từng dậy sớm thức khuya, những lo không cáng đáng nổi nên vẫn tìm người hiền lương quân tử để cùng điều khiển chính sự, khẩn khoản đã đến mức tận cùng. Kinh Thi có câu: Quân tử tìm bạn, tìm mãi chẳng ra, thức ngủ trăn trở, lâu thay lâu thay. Nay trẫm một mình suy đi tính lại, thấy duy chỉ có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực đúng là hiền nhân quân tử, uy nghi rất đường hoàng, văn võ gồm tài như thần như thánh, dù là Hán Cao Tổ hay Đường Thái Tông (hai vị vua sáng nghiệp của nhà Hán và nhà Đường ở Trung Quốc - NKT) cũng không thể hơn được. Trẫm từ lâu đã nghĩ kỹ, xét việc nên nhường ngôi báu để thỏa lòng trời, cũng là để thỏa lòng riêng của trẫm, mong sao (được người) đồng tâm hiệp lực, cùng lo việc nước và hưởng phúc thái bình. Vậy, bố cáo khắp thiên hạ để mọi người cùng biết.

Ngày Mậu Dần là ngày 11 tháng chạp (năm Giáp Thân, 1224 - NKT) vua (Lý) Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, cùng lạy dưới sân. Vua Lý Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự, mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng (tức là vị Hoàng đế được nhường ngôi - NKT) sau lại đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng đế. Trần Thủ Độ được phong làm Quốc Thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước” (Đại việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 4, tờ 33a-b và 34a-b)

  • Ngay sau khi Trần Cảnh được tôn lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã nhanh chóng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm củng cố địa vị của họ Trần trên vũ đài chính trị. Thân phụ của Trần Cảnh là Trần Thừa được giao trọng trách điều khiển các việc trong triều, còn Trần Thủ Độ thì đích thân đem quân đi đàn áp các thế lực chống đối.

Bấy giờ, tướng Đoàn Thượng chiếm cứ ở mạn Hồng Châu. Đoàn Thượng xưng vương và ngang nhiên chống lại triều Lý từ năm 1212. Đến đây, Đoàn Thượng vẫn tiếp tục chiếm cứ Hồng Châu và đối địch với họ Trần
         
Năm 1219, đến lượt Nguyễn Nộn (một cư sĩ người ở Bắc Ninh) nổi lên chống triều Lý. Cũng tương tự như Đoàn Thượng, về sau, khi triều Trần được dựng lên. Nguyễn Nộn quyết không chịu thần phục.

Ngoài hai thế lực nói trên, họ Trần còn vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của nhiều thế lực khác, đặc biệt là sự chống đối của quý tộc họ Lý dưới nhiều dạng thức và mức độ khác nhau.

  • Cũng ngay sau khi Trần Cảnh được tôn lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã áp dụng nhiều biện pháp rất kiên quyết, nhằm nâng quyền lực của họ Trần, triệt để chấm dứt mọi mầm mống của họa loạn và nhanh chóng ổn định tình hình chính trị của nước nhà. Để có cơ sở thực hiện những công việc phức tạp này, đầu năm Bính Ngọ (1226), Trần Thủ Độ tự phong cho mình hàm Thái sư.

Ngay sau khi nhận hàm Thái sư, Trần Thủ Độ đã buộc Lý Huệ Tông (lúc này đã đi tu) phải ra ở hẳn trong Chùa Chân Giáo (Chùa Chân Giáo ở ngay trong kinh thành Thăng Long, được xây dựng từ tháng 9 năm Giáp Tý (1024), đời vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028). Tháng 8 năm 1226, Trần Thủ Độ đã bức tử Lý Huệ Tông, đồng thời, truất ngôi Hoàng hậu của bà Trần Thị Dung, giáng bà làm Thiên Cực Công chúa và Trần Thủ Độ đã lấy bà Trần Thị Dung (cũng là chị họ của ông) làm vợ.

Tháng 10 năm 1226, Trần Thủ Độ đã đặt lễ, tôn Trần Thừa làm Thượng Hoàng và bà chính thất của Trần Thừa (người họ Lê, hiện chưa rõ tên ) làm Quốc Thánh Hoàng.

Phần lớn các quý tộc họ Lý có ý chống lại họ Trần đều lần lượt bị Trần Thủ Độ tìm cách thủ tiêu. Đợt thủ tiêu lớn nhất là mùa đông năm Nhâm Thìn (1232) tại thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm. Xã này nay thuộc Bắc Ninh, Hà Bắc (Về sự kiện này, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 6, tờ 12 chép: “Trần Thủ Độ giết vua Lý Huệ Tông, cho nên, bọn tôn thất nhà Lý phần nhiều đều ấm ức thất vọng. Nhân họ làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm, (Trần) Thủ Độ sai người ngầm đào hố sâu, dựng nhà lên trên rồi giật dây cho đổ, chôn sống hết tôn thất nhà Lý”).

Năm Đinh Dậu (1237), Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa của nhà Lý cũ cho em, cũng chính là vua Trần, dẫu lúc này Thuận Thiên Công Chúa đã có thai với Trần Liễu được ba tháng (Đó chính là Trấn Quốc Khang sau này). Chiêu Thánh Công chúa từ khi nhường ngôi cho Trần Cảnh, đã được Trần Cảnh lập làm Hoàng hậu, nay bị giáng làm Công chúa. Ngôi Hoàng hậu từ đó thuộc về Thuận Thiên Công chúa.

Trần Thủ Độ là người chủ trương cho con em trong họ Trần lấy nhau. Xét về xuất phát điểm, đây là chủ trương nhằm đề phòng người khác họ lợi dụng hôn nhân để cướp ngôi. Ở một chừng mực nào đó, sự cẩn trọng giữ ngôi là cần thiết, chỉ tiếc là Trần Thủ Độ cùng những người đương thời không thấy hết những tác hại to lớn và lâu dài của chủ trương này.

Ngoài ra, Trần Thủ Độ còn tổ chức lễ thề ở đền Đồng Cổ rất trọng thể. Lễ này vốn có từ thời Lý, được tổ chức lần đầu tiên dưới thời Trần vào tháng 4 năm Đinh Hợi (1227) và được duy trì thường xuyên trong một thời gian khá dài. Trần Thủ Độ muốn thông qua lễ thề để cố kết nhân tâm mà trước hết là trong đội ngũ những người cầm quyền.

  • Với tư cách là Thái sư, Trần Thủ Độ vừa đánh dẹp các thế lực chống đối, vừa chăm lo ổn định tình hình chính trị của nước nhà, lại vừa gấp rút xây dựng guồng máy nhà nước, đủ sức để điều khiển vận mệnh quốc gia. Quá trình lớn này được bắt đầu từ triều đình và kết thúc ở cấp hành chánh cơ sở. Lịch sử trân trọng ghi nhận sự công minh và kiên quyết của Trần Thủ Độ trong hoạt động hết sức khó khăn này:

“Có lần, (Trần) Thủ Độ đi duyệt định hộ khẩu. Quốc mẫu (chỉ vợ ông là bà Trần Thị Dung - NKT) xin riêng cho một người được làm chức Câu đương (tên một chức dịch trong xã, chuyên lo việc kiện tụng, bắt và giải người lên quan trên - NKT). Ông gật đầu rồi ghi ngay họ tên, quê quán của người đó. Lúc xét đến xã ấy, (Trần Thủ Độ) hỏi là tên kia ở đâu? Hắn mừng rỡ chạy đến, (Trần) Thủ Độ bảo hắn:

- Ngươi vì có Công chúa (cũng chỉ bà Trần Thị Dung - NKT) xin cho mới được làm Câu đương, cho nên không thể ví với (chức Câu đương) của kẻ khác được. Vậy, ta phải chặt một ngón chân của ngươi để phân biệt với họ.

Người đó kêu than, van xin mãi mới được (Trần Thủ Độ) tha cho. Từ ấy, không một ai dám đến thăm (Trần Thủ Độ) vì việc riêng được nữa.

Có lần, vua (Trần) Thái Tông muốn cho người anh của (Trần) Thủ Độ là An Quốc làm Tể tướng, (Trần) Thủ Độ tâu:

- An Quốc là anh thần, nếu cho là (An Quốc) giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể trao cho An Quốc chức ấy. Còn như nếu để cả hai anh em cùng làm Tể tướng thì công việc của triều đình rồi sẽ ra sao.

Nhà vua nghe vậy bèn thôi” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 5, tờ 29-a).

  • Công lao xây dựng bộ luật thành văn cho triều Trần là của những người thuộc thế hệ sau của Trần Thủ Độ, nhưng sinh thời, Trần Thủ Độ đã có đóng góp không nhỏ cho việc ban hành những quy định mang tính pháp luật và ông là người nêu cao tấm gương tuân thủ những quy định mang tính pháp luật đó. Sử cũ đã trân trọng chép vài mẩu chuyện rất cảm động về sự ứng xử trong khuôn khổ phép nước của ông:

“Vua (Trần) Thái Tông lấy được thiên hạ, tất cả đều nhờ ở mưu mẹo và sức lực của ông, vì thế ông được nhà nước tin cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ, có kẻ muốn đàn hặc ông, bèn vào gặp vua (Trần) Thái Tông, vừa khóc vừa tâu rằng:

- Bệ hạ thì còn thơ ấu mà (Trần) Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?

Vua (Trần) Thái Tông lập tức ra lệnh, lấy xe ngự đến dinh của (Trần) Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc kia đi theo, nói lại những lời người ấy đã nói với vua cho (Trần) Thủ Độ nghe. (Trần) Thủ Độ trả lời:

- Quả đúng như lời hắn nói.

(Nói xong), lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.

Linh Từ Quốc mẫu (chỉ vợ của Trần Thủ Độ là bà Trần Thị Dung - NKT) có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị người quân hiệu ngăn lại. Bà về dinh, vừa khóc vừa nói với (Trần) Thủ Độ rằng:

- Mụ này là vợ ông mà bọn quân hiệu dám khinh nhờn đến thế hay sao?

(Trần) Thủ Độ tức giận, sai người đi bắt (tên quân hiệu kia). Người quân hiệu nghĩ là mình ắt phải chết, cho nên khi đến nơi, bị (Trần) Thủ Độ vặn hỏi trước mặt (Linh Từ Quốc mẫu), hắn cứ tình thực mà trả lời. (Trần) Thủ Độ nghe xong liền nói:

- Ngươi ở chức thấp mà giữ được phép nước, ta còn trách vào đâu được nữa?

Nói xong, lấy vàng và lụa thưởng cho (người quân hiệu ấy) rồi thả cho về” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 5, tờ 28-b)

Ở một chừng mực nhất định nào đó, chúng ta cũng có thể nói rằng, Trần Thủ Độ chính là người đã có công khai sinh ra triều Trần, có công tạo ra bước tiến mới cho Đại Việt. Năm ông ngoài sáu chục tuổi, đất nước gặp họa xâm lăng và trong thử thách quyết liệt này, ông vẫn là chỗ dựa tin cậy của triều đình, của quân dân cả nước. Tiếng nói dày dạn kinh nghiệm của lão tướng Trần Thủ Độ là tiếng nói kết tinh khí phách quật cường của dân tộc.

Trần Thủ Độ mất vào tháng giêng năm Giáp TÝ (1264), thọ 70 tuổi. Ở buổi đầu của triều Trần, ông là người duy nhất được chính vua Trần lập đền thờ ngay khi đang còn sống. Khi mất, ông được triều đình truy tặng hàm Thượng phụ Thái sư, tước Trung Vũ Đại Vương.

Như trên đã nói, để tạo lập ngôi vị và bảo vệ quyền lực của họ Trần, sinh thời, Trần Thủ Độ đã thẳng tay trừng trị mọi thế lực chống đối, nhất là thế lực họ Lý. Tuy nhiên, nếu đặt trong cả một bình diện rộng lớn của lịch sử, phần lớn những việc mà Trần Thủ Độ đã làm, không có gì khó hiểu. Rồi cũng với mục đích này, Trần Thủ Độ đã tạo ra mối quan hệ hôn nhân rất xa lạ và do đó rất khó chấp nhận.

Điều không ai có thế nói khác, đó là Trần Thủ Độ đã thành công. Xưa cũng như nay, có người chê Trần Thủ Độ học vấn thấp. Đó chính là điều chưa công bằng. Thời ấy, đỗ đại khoa tuy nhiều, nhưng đủ năng lực và ý chí để làm được những việc lớn như Trần Thủ Độ đã làm, nào đã có mấy ai.

II. TRẦN THỦ ĐỘ - CHỖ DỰA TIN CẬY CỦA TRIỀU ĐÌNH VÀ XÃ TẮC

Năm 1257, sau khi trịnh trọng làm lễ tế cờ, Đại Hãn của Mông Cổ lúc bấy giờ là Mông-kha, lập tức chia quân làm 4 đạo ồ ạt tấn công, quyết chí thôn tính bằng được đất Trung Quốc:

    1. Đạo thứ nhất do đích thân Mông-kha chỉ huy, đánh vào vùng Tứ Xuyên ngày nay.
    2. Đạo thứ hai do Hốt-tất-liệt (người về sau được lên nối ngôi Đại Hãn) cầm đầu, đánh vào vùng Hồ Bắc ngày nay.
    3. Đạo thứ ba do tướng Tô-ga-tra (Tô-ga-tra là cháu gọi Thành-cát-tư Hãn là bác ruột. Sử cũ thường phiên âm là Tháp-sát-nhi) chỉ huy, đánh vào khu vực hạ lưu sông Trường Giang ngày nay.
    4. Đạo thứ tư do tướng U-ri-ang-kha-đai chỉ huy, từ nước Đại Lý (một vương quốc cổ, nằm ở vùng Vân Nam, Trung Quốc ngày nay. Tướng U-ri-ang-kha-đai thường được sử cũ phiên âm là Ngột-lương-hợp-thai, Ngột-đãi-hợp-thai hay Cốt-đãi-hợp-thai...) đánh thẳng xuống nước ta, rồi từ nước ta, đánh ngược lên vùng Quảng Tây của Trung Quốc.

Như vậy, cuộc tấn công xâm lược nước ta, ngay từ đầu, đã là một bộ phận trong kế hoạch chung của Mông-kha. Lực lượng của đạo quân thứ tư tuy không lớn như những đạo quân khác nhưng, đối với Đại Việt, đó quả thực là một thử thách lịch sử cam go. Thành bại của cuộc đối đầu này chẳng những tác động trực tiếp đến sự tồn vong của nhà Trần mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự an nguy của xã tắc.

Bấy giờ, vua Trần Thái Tông đã 40 tuổi, đã trải hơn ba chục năm làm vua, nghĩa là đang ở thời kỳ sung sức nhất, nhưng chỗ dựa thực sự vững chắc và đáng tin cậy nhất của triều đình và của đất nước vẫn là Trần Thủ Độ - người chưa từng làm vua nhưng chính là người đã tạo lập và thiết kế nên bộ máy của triều Trần, người hoạch định những kế sánh lớn của triều Trần. Lúc này, Trần Thủ Độ đã ngoài 60 tuổi, nhưng cơ thể vẫn cường tráng, đầu óc minh mẫn và đặc biệt, chí khí vẫn mạnh mẽ hơn người. Triều đình tin cậy ông và ông cũng luôn luôn tỏ rõ là người xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao đó.

Trước khi cho quân tràn xuống nước ta, U-ri-ang-kha-đai đã nhiều lần phái sứ giả đến Đại Việt, dùng lời lẽ xấc xược và thô bạo, hòng hù dọa để cướp nước ta mà không cần đến binh đao. Nhà Trần chẳng những không chút nao núng mà còn hạ lệnh tống giam sứ giả của giặc, đồng thời, lập tức điều động quân sĩ đến đóng giữ ở những vị trí hiểm yếu nhất.

Chờ mãi không thấy sứ giả trở về, U-ri-ang-kha-đai buộc phải tự mình tìm đường đem quân tiến xuống nước ta (Trước đó, vua Đại Lý là Đoàn Hưng Trí đã đầu hàng U-ri-ang-kha dai và nhận dẫn đường cho quân Mông Cổ đánh xuống nước ta. Nhưng Đoàn Hưng Trí đã bị bệnh mất vào cuối năm 1257). Lực lượng của U-ri-ang-kha-đai gồm khoảng 3 vạn kỵ binh và bộ binh, tất cả cùng men theo sông Hồng mà vào nước ta. Cuộc đọ sức lịch sử giữa Đại Việt với quân Mông Cổ bắt đầu.

Ngày 17 tháng 1 năm 1258, một cuộc ác chiến đã diễn ra tại khu vực Bình Lệ Nguyên (nay là vùng Phong Châu, tỉnh Phú Thọ). Vua Trần Thái Tông đích thân chỉ huy trận này.

Vừa tiến vào đã gặp ngay chủ lực của ta, bởi vậy tướng giặc là U-ri-ang-kha-đai rất hí hửng. Hắn vội chia quân làm 3 mũi, quyết bao vây và tiêu diệt lực lượng ta, quyết bắt sống vua Trần. Đây là đất trung du, địa hình rất thuận tiện đối với kỵ binh Mông Cổ. Bởi lẽ đó, tình thế trở nên rất nguy hiểm cho ta. Vua Trần có ý định dốc toàn lực để đánh trận sống mái với U-ri-ang-kha-đai ở Bình Lệ Nguyên. Ý định đó thể hiện một khí phách rất hiên ngang, một quyết tâm rất cao độ, nhưng, đó cũng là ý định thiếu sự cân nhắc, rất dễ dẫn đến đại bại. Đúng lúc đó, Lê Tần (tức Lê Phụ Trần) đã kịp thời can ngăn. Theo Lê Tần, trước thế mạnh của giặc, ta phải tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, quyết không cho giặc có thể phát huy được nhuệ khí, cũng như sở trường chiến đấu ở vùng trung du. Vua Trần Thái Tông đã đánh giá rất cao ý kiến xuất sắc này của Lê Tần. Và người ủng hộ một cách mạnh mẽ nhất, kiên quyết nhất đối với ý kiến xuất sắc này chính là Trần Thủ Độ.

Từ Bình Lệ Nguyên, quân đội Đại Việt rút về khu vực Thăng Long. Cuộc vồ hụt ở Bình Lệ Nguyên này khiến cho U-ri-ang-kha-đai rất tức giận. Hắn đổ hết tội lỗi cho viên tướng tiên phong là Triệt-triệt-đô. Vì quá sợ hãi, viên tướng này đã phải uống thuốc độc tự tử.

Giặc điên cuồng đuổi theo, quyết tiêu diệt chủ lực của ta ở ngay Thăng Long. Một lần nữa, ta lại chủ trương tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng. So với cuộc rút lui khỏi Bình Lệ Nguyên, cuộc rút lui khỏi Thăng Long khó khăn gấp nhiều lần. Ngoài triều đình và quân đội, tất cả hoàng tộc và kho tàng cũng phải nhanh chóng được đưa ra khỏi Thăng Long. Công việc khó khăn và nặng nề này do bà Trần Thị Dung (Nguyên là Hoàng hậu của Lý Huệ Tông. Năm 1226, sau khi Lý Huệ Tông bị giết, bà được đem gả cho Trần Thủ Độ. Nhờ có nhiều công lao, nên sau khi mất, bà được truy phong là Linh Từ Quốc mẫu) trực tiếp chỉ huy. Hẳn nhiên là trong thử thách cam go, không phải ai ai cũng đủ bản lĩnh và sáng suốt để nhận ra ý kiến xuất sắc của Lê Tần. Sự hốt hoảng của Thái uý Trần Nhật Hiệu có thể coi là một ví dụ tiêu biểu (Trần Nhật Hiệu là con thứ ba của Trần Thừa, em của An Sinh Vương Trần Liễu và vua Trần Thái Tông). Nhưng, điều đáng nói là những người tương tự như thế không nhiều. Khí phách của quân dân ta thời Trần thể hiện một cách tập trung và sâu sắc ở quyết tâm cao độ của đông đảo tướng sĩ và đặc biệt là ở lão tướng Trần Thủ Độ. Sử cũ chép rằng:

“Vua ngự thuyền nhẹ đến thuyền của Thái uý (Trần) Nhật Hiệu để hỏi về kế sách (chống giữ). Khi ấy Nhật Hiệu đang dựa ở mạn thuyền, chỉ ngồi mà không sao đứng dậy nổi, lấy ngón tay nhúng nước rối viết lên mạn thuyền hai chữ nhập Tống (nghĩa là chạy vào đất nhà Tống, tức là đất Trung Quốc - NKT) mà thôi. Vua hỏi quân Tinh Cương ở đâu (Tinh Cương là đội quân do Nhật Hiệu chỉ huy) thì Nhật Hiệu trả lời:

- Không gọi chúng đến được.

Vua lập tức quay thuyền đến hỏi Thái Sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ trả lời:

- Đầu thần chưa rơi xuống đất thì xin bệ hạ chớ có lo” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 5, tờ 22-b).

Cuộc rút lui khỏi Thăng Long đã khiến cho tướng giặc là U-ri-ang-kha-dai rất tức tối. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của chúng hoàn toàn bị phá vỡ, trong lúc đó, chủ lực của ta vẫn được bảo toàn và đang gấp rút tạo cơ hội để đánh trận quyết định với giặc. Sử cũ không ghi rõ nội dung cuộc vấn kế của vua Trần Thái Tông đối với Thái sư Trần Thủ Độ, nhưng rõ ràng, lời nói trên đã có ảnh hưởng rất to lớn đến quyết tâm của nhà vua. Kế hoạch phản công táo bạo và thông minh sau đó của nhà Trần ắt hẳn phải gắn liến với những ý kiến đầy mưu lược của lão tướng Trần Thủ Độ.

U-ri-ang-kha-đai tiến vào được trong kinh thành Thăng Long, nhưng kinh thành Thăng Long bấy giờ đã hoàn toàn trống rỗng, không một bóng người, không một chút lương thực và thực phẩm nào có thể lọt vào tay chúng. Giặc bị đẩy vào một tình thế hết sức gay go, đó là vừa thiếu lương thực và thực phẩm, lại vừa bị ta bao vây. Đúng lúc đó, vua Trần hạ lệnh phản công. Một trận đánh ác liệt đã diễn ra tại khu vực Đông Bộ Đầu (nay là khu vực dốc Hàng Than, đầu cầu Long Biên, Hà Nội) vào ngày 29-1-1258. Với trận đánh này, gần 3 vạn quân Mông Cổ bị đánh bật ra khỏi Thăng Long và sau đó là bị đánh bật ra khỏi những vị trí then chốt nhất. U-ri-ang-kha-đai, viên dũng tướng của giặc, kẻ từng gây kinh hoàng khắp Ba Lan, Đức và Trung Quốc đến đây đã buộc phải tháo chạy trước cuộc phản công của quân dân Đại Việt. Dọc đường tháo chạy, giặc vấp phải những trận phục kích rất nguy hiểm của các đội dân binh, đặc biệt là các đội dân binh của đồng bào các dân tộc ít người (Một trong những thủ lĩnh xuất sắc của các đội dân binh được sử cũ ghi chép lại là Hà Bổng, chủ trại Quy Hóa). U-ri-ang-kha-đai khiếp đảm đến nỗi không dám nghĩ đến chuyện cướp lương ăn, vì vậy người đương thời đã mỉa mai gọi những là “giặc Phật”.

Tượng Hổ đá tại lăng Thái sư Trần Thủ Độ hiện đang trưng bày tại khu trưng bày ngoài trời Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Cuộc kháng chiến của quân dân ta kết thúc toàn thắng. Ngày mồng 1 Tết năm Mậu Ngọ (5-2-1258) , vua Trần cùng toàn thể bá quan văn võ của triều Trần đã có mặt tại kinh thành Thăng Long và long trọng tổ chức lễ triều yết đầu tiên sau một thời gian tạm vắng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến này là thắng lợi chung của quân dân cả nước, thắng lợi của khí phách ngoan cường và của tài thao lược kiệt xuất mà dân tộc ta đã tích lũy được trong lịch sử giữ nước lâu dài. Trong số những ngươi góp phần to lớn nhất cho thắng lợi chung có Thái sư Trần Thủ Độ. Tài năng của Trần Thủ Độ trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Về quân sự, cống hiến của Trần Thủ Độ có thể tạm chia làm ba dạng thức với ba mức độ khác nhau như sau:

  • Thứ nhất, với tư cách là quan Điện tiền Chỉ huy sứ thời Lý Huệ Tông, Trần Thủ Độ đã tỏ rõ tài cầm quân, điều khiển một cách có hiệu quả mọi hoạt động của đội quân đặc biệt này. Đây chính là cơ sở thực tế quan trọng để Trần Thủ Độ có thể tự tin mãnh liệt khi ông quyết định một loạt các biện pháp làm thay đổi hoàn toàn cục diện chính trị đương thời.
  • Thứ hai, ngay sau khi triều Trần được dựng lên, Trần Thủ Độ là tướng trực tiếp cầm quân đánh dẹp các thế lực chống đối, đặc biệt là thế lực của Đoàn Thượng và thế lực của Nguyễn Nộn. Trần Thủ Độ vừa là người vạch kế hoạch, đồng thời cũng là người trực tiếp chỉ huy. Khi vạch kế hoạch, Trần Thủ Độ đã tỏ rõ là người giàu mưu lược. Khi trực tiếp chỉ huy, Trần Thủ Độ đã tỏ rõ sự sắc sảo và kiên quyết lạ thường. Đây chính là lúc tài năng quân sự của Trần Thủ Độ phát triển mạnh mẽ nhất.
  • Thứ ba, trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng năm 1258, Trần Thủ Độ là vị lão tướng dày dạn kinh nghiệm. Ông đã trực tiếp cầm quân, sát cánh chiến đấu bên cạnh vua Trần. Ông là người ủng hộ một cách kiên quyết nhất đối với ý kiến xuất sắc của Lê Tần. Ông là người tả xung hữu đột nơi trận mạc, xứng đáng là bậc đại diện tiêu biểu của khí phách quật cường. Ông là chỗ dựa tin cậy của triều đình và xã tắc.

Như trên đã nói, vua Trần Thái Tông đã lập đền thờ để thờ ông ngay khi ông còn sống. Đó là việc làm tỏ rõ vua Trần đánh giá rất cao lòng trung nghĩa và công lao phò tá của ông, đánh giá rất cao tài năng và cống hiến của ông trong sự nghiệp giữ nước.