In bài này
Lê Ngân (? - 1137)
Thứ Bẩy, 26/09/2009 - 5:54 PM
"Là khí thiêng của sông núi đúc nên; Là tài lớn của triều đình gộp lại... / Đức trung trinh mài chẳng thể mòn; Danh tiết sáng, bôi không thể bẩn” - Lời chế văn của vua Lê Thái Tông dẫn lại trong Đại Việt thông sử (Chư thần truyện)

"Xét như Lê Ngân:
Là khí thiêng của sông núi đúc nên;
Là tài lớn của triều đình gộp lại.
Thuở trời đất tối tăm thì sớm biết thánh nhân xuất hiện;
Thời ngang dọc can qua thì lo trước nỗi lo muôn nhà.
Không đội trời chung cùng giặc nước;
Thương dân chìm đắm quyết xông pha.
Đẹp thay:
Đức trung trinh mài chẳng thể mòn;
Danh tiết sáng, bôi không thể bẩn”.
Lời chế văn của vua Lê Thái Tông dẫn lại trong Đại Việt thông sử (Chư thần truyện).

Lê Ngân người xã Đàm Di (Theo Đại Việt thông sử (Chư thần truyện). Đại Nam nhất thông chí (tỉnh Thanh Hoá, mục Nhân vật) nói ông là người huyện Thụy Nguyên. Chúng tôi chưa có dịp khảo sát tại quê nhà Lê Ngân nên tạm chép theo ghi chép của sách xưa), thuộc Lam Sơn, Thanh Hóa, sinh năm nào chưa rõ. Ông cũng là một trong những người đầu tiên đến tụ nghĩa ở Lam Sơn, hăng hái sát cánh với Lê Lợi, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu một mất một còn, nhằm lật nhào ách đô hộ của quân Minh, giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước.

Đi với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, Lê Ngân đã nhanh chóng bộc lộ và không ngừng nâng cao tài năng quân sự của mình. Ông dần dần trở thành võ tướng cao cấp của Lam Sơn và lập công xuất sắc trong nhiều trận đánh lớn. Cống hiến của Lê Ngân có thể tóm tắt qua mấy sự kiện lớn sau đây:

  • Trận Lạc Thủy (13 tháng 4 năm Mậu Tuất)

Nếu tính theo dương lịch, trận này diễn ra vào ngày 18/5/1418. Bấy giờ, khởi nghĩa Lam Sơn vừa mới bùng nổ được hơn 4 tháng và đang chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn.
Với quân số áp đảo, quân Minh liên tiếp tổ chức hàng loạt những cuộc tàn công đàn áp khác nhau.  Chỉ tính riêng từ ngày mồng 9-13/4 năm Mậu Tuất (tức là từ ngày 14/18/5/1418), Lam Sơn đã phải chống trả quyết liệt với hai cuộc càn quét lớn. 
Ngày 9 tháng 4 năm Mậu Tuất (14/ 5/1418), ngay sau khi Lê Lợi và nghĩa quân vừa trở về Lam Sơn thì đại quân của giặc kéo đến. Bởi tương quan lực lượng quá chênh lệch, thành lũy kiên cố cũng không còn, nghĩa quân Lam Sơn chỉ có thể tổ chức vài trận đánh cản rồi rút lui lên Lạc Thủy (một địa điểm nằm ở vùng thượng lưu sông Chu, phía trên của Lam Sơn).
Ngày 13 tháng 4 năm Mậu Tuất (18/5/1418), tướng giặc là Mã Kỳ lại đem quân đánh gấp vào Lạc Thủy. Bấy giờ, nhờ dự đoán đúng diễn biến của tình hình, Lê Lợi liền lập tức cho quân mai phục sẵn ở một vị trí hiểm yếu, nằm trên đường dẫn vào Lạc Thủy, quyết đánh một trận phủ đầu thật bất ngờ với quân Minh. Mã Kỳ không hề hay biết gì.
Lực lượng Lam Sơn trong tràn mai phục này có các tướng Lê Ngân, Lê Thạch, Đinh Bồ và Nguyễn Lý chỉ huy. Do khéo tận dụng địa thế lại dành một cách rất bất ngờ và hiểm hóc, nghĩa quân Lam Sơn đã tháng lớn. Ta đã “chém được vài ba ngàn tên, quân trang khí giới bắt được kể có đến hàng ngàn” (Lam Sơn thực lục, Quyển 1).
Trong trận đánh quan trọng này, tên tuổi của các tướng nói trên, đặc biệt là tên tuổi của Lê Ngân và Lê Thạch, trở nên nổi bật.  Từ đây, Lê Ngân luôn được Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn tin cậy, giao phó những nhiệm vụ ngày càng lớn. Đáp lại, Lê Ngân cũng không ngừng cố gắng lập công, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của Lam Sơn.

  • Tướng tiên phong trong trận Khả Lưu - Bồ Ải (1424) (Về trận đánh này, tham khảo thêm phần viết về Lê Sát)

Cuối năm 1424, Lam Sơn bất ngờ tấn công vào Nghệ An. Kế hoạch chiến lược do Nguyễn Chích đề xướng đã nhanh chóng thu được những kết quả rất tốt đẹp. Lam Sơn chiếm được Trà Lân và khống chế đồng bằng Nghệ An.
Quân Minh do Trần Trí và Phương Chính cầm đầu, dự tính sẽ đánh úp Trà Lân, quyết bóp nát lực lượng của Lam Sơn trong trận càn quét lớn này. Không may cho Trần Trí và Phương Chính, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã nhanh chóng cho quân đến chiếm Khả Lưu là cửa ải quan trọng nằm trên đường tiến vào Trà Lân. Mưu toan lợi dụng sự bất ngờ của giặc không thể thực hiện được nữa. Trần Trí và Phương Chính cho quân đóng ở bãi Phá Lữ. Bốn ngày sau, quân Lam Sơn giả vờ rút khỏi Khả Lưu rồi vòng lại bố trí lai phục ở ngay khu đất hiểm này. Trần Trí và Phương Chính ngỡ là Lam Sơn sợ mà rút, liền xua quân đuổi theo. Chẳng dè vừa tiến đến ải Khả Lưu, chúng bị phục binh của Lam Sơn từ ba phía đổ ra đánh. Giặc bị giết có đến hàng vạn tên (Lam Sơn thực lục, Quyển l). 
Trong trận đánh này, Lê Ngân và Lê Sát là hai tướng tiên phong, được coi là những người lập công lớn nhất. 
Sau trận này, Trần Trí và Phương Chính lại lui quân về bãi Phá Lữ, còn Lam Sơn thì tu bổ chiến lũy để đóng lại ở Khả Lưu. Bấy giờ vì thiếu lương thực, việc đóng lại ở Khả Lưu lâu dài là điều rất khó khăn, còn như rút lui, bỏ đất hiểm ấy cho giặc cũng là điều không thể được. Theo ý kiến của tướng Nguyễn Vĩnh Lộc, Lam Sơn giả vờ đốt doanh trại ở Khả Lưu để rút lên miền thượng lưu, nhưng sau đó thì cho quân vòng lại để mai phục. Trần Trí và Phương Chính lại một lần nữa bị mắc mưu, bị dồn vào thế trận bày sẵn để rồi bị tiêu hao rất nặng nề. Tại đây, “Ta chém được nhiều không kể xiết. Chiến thuyền của chúng ngổn ngang, xác chết nghẽn cả nước, khí giới vất như núi, như gò. Trong trận này, ta bắt sống được tướng giặc là Chu Kiệt và giết được tướng giặc là Hoàng Thành, bắt sống được hơn một vạn quân Minh” (Lam Sơn thực lục, Quyển l).
Sử cũ trân trọng chép tên 11 vị tướng Lam Sơn có công lớn ở trận mai phục này, đó là: Lê Sát, Bùi Bị, Phạm Vấn, Đinh Lễ, Lưu Nhân Chú, Lê Ngân, Trương Chiến, Lê Tôn Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi và Lê Văn An.

  • Trận Tân Bình - Thuận Hóa (Đầu năm 1425)

Sau khi đã giải phóng được toàn bộ khu vực đồng bằng xứ Nghệ, Lê Lợi cho quân ráo riết vây hãm thành Nghệ An. Để đề phòng khả năng giặc có thể kết hợp đánh từ Bắc đánh vào, đánh từ Nam đánh ra, lại cũng để không ngừng mở rộng vùng giải phóng, Lê Lợi cho một bộ phận lực lượng bất ngờ đánh vào vùng Tân Bình-Thuận Hóa (đại thể là vùng tương ứng với đất đai các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Tri và Thừa Thiên-Huế ngày nay).
Lực lượng này gồm hơn 1000 quân và một thớt voi, do Thượng tướng Lê Nỗ, Chấp lệnh Lê Đa Bồ và tướng Trần Nguyên Hãn chỉ huy. Ngay sau đó, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn lại phái các tướng Lê Văn An, Lý Triện, Lê Bôi và Lê Ngân, đem 70 chiến thuyền, gấp rút vượt biển tiến vào để tiếp ứng.
Sự có mặt của đạo quân tăng cường này khiến cho giặc đã sợ lại càng thêm sợ. Chúng không dám chống cự mà buộc phải rút vào cố thủ trong thành. Vậy là cũng tương tự như ở Nghệ An, Lam Sơn đã giải phóng tất cả vùng đồng bằng dân cư đông đúc, thành giặc chỉ như các ốc đảo chư vơ, có thể bị tiêu diệt bất cứ lúc nào.
Trận Tân Bình-Thuận Hóa có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ sự phát triển sau đó của phong trào Lam Sơn. Sử cũ đã đánh giá trận này như sau:
“Thế là các xứ Tân Bình và Thuận Hóa đều về ta tất cả. Đó là đất lòng dạ của ta. Đã thu được đất ấy rồi thì mối lo ở phía Nam cũng không còn nữa” (Lam Sơn thực lục, Quyển 1).

  • Vây hãm thành Nghệ An, dụ hàng được Thái Phúc (1427)

Tháng 9 năm 1426, sau khi giải phóng được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam, Lam Sơn liền cho hơn 1 vạn quân, chia làm ba đạo khác nhau, cùng tiến ra hoạt động ở vùng còn tạm bị quân Minh chiếm đóng và tìm cách uy hiếp thành Đông Quan.
Tháng 11 năm 1426, quân Lam Sơn đã thắng lừng lẫy ở trận quyết chiến chiến lược Tốt Động-Chúc Động, đập tan hoàn toàn mưu đồ phản công của Vương Thông.
Tin đại thắng báo về, Lê Lợi rất lấy làm phấn khởi. Ông lập tức đưa toàn bộ Bộ chỉ huy Lam Sơn ra đóng ở ngay vùng ngoại thành Đông Quan. Trước khi đi, Lê Lợi trao quyền tổ chức vây hãm thành Nghệ An cho Lê Ngân. Và Lê Ngân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Ông vừa ráo riết xiết chặt vòng vây, vừa khỏng ngừng lên tiếng dụ hàng. Tháng 2 năm 1427, tướng giặc đang giữ thành Nghệ An là Thái Phúc phải mở cửa xin hàng, Lê Ngân hiên ngang vào tiếp quản thành Nghệ An. Sự kiện này khiến cho quân Minh thực sự lo sợ. Đội ngũ của chúng mỗi ngày một rêu rã hơn.

Nhờ những công lao như trên, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Ngân được tấn phong là Suy Trung Tán Trị, Hiệp mưu Công thần, hàm Nhập nội Tư mã, quyền tham dự triều chính. Tháng 5 năm 1429, triều Lê dựng biển khắc tên 93 Khai quốc Công thần, tên ông được xếp ở hàng thứ tư, ông được phong tước Á hầu. 

Năm 1434, Lê Ngân được phong hàm Tư khấu, chức Đô Tổng quản Hành quân Bắc Đạo và được cùng với Đại Tư đồ Lê Sát nắm quyền Phụ chính.

Năm 1437, khi Lê Sát bị bãi chức (Tham khảo thêm chi tiết của sự kiện này trong phần viết về Lê Sát), ông được trao quyền Tể tướng, được phong là Nhập nội Đại Đô đốc, Phiêu kỵ Thượng tướng quân, Đặc Tiến Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty, Thượng trụ quốc, tước Thượng hầu. Nhưng, chỉ đến cuối năm 1437, ông cũng bị buộc phải tự tử, gia sản bị tịch thu và con gái ông là Huệ phi Lê Nhật Lệ bị giáng xuống hàng Tu Dung (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 17, tờ 15).

Sinh thời, Lê Ngân là bậc tài cao, dũng mãnh và mưu lược, nhưng, khi làm quan trong thời thái bình, ông lại là người thiếu bản lĩnh chính trị và có phần hẹp hòi. Sử cũ nhận định về ông như sau:

“Tính ông cứng rắn mà hẹp hòi. Có tên Phạm Mấn là người cùng làng, vì có việc tranh ruộng với nô tì của ông nên có lỡ nói càn quấy mấy câu. Tên nô tì giận, nói rằng khi Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) khởi binh, (Phạm) Mấn theo quân Lam Sơn đi đánh Sách Cối nhưng rồi lại đầu hàng giặc, chỉ cho chúng biết cách bố phòng và trang bị của quân ta, làm cho quân ta không thể đánh được, phải quay về. Nhà vua biết chuyện đó, liền giao cho hình quan xét xử, khép (Phạm Mấn) vào án chém. Lê Sát nói:

- Nay chúng ta có quyền thế mà lại đi thù người làng thì muốn gì mà chẳng được. Nhưng sau này lỡ ra ta bị thất thế thì làm sao mà tránh được nợ ân oán cho con cháu mình.

Lê Ngân to tiếng ngay:

- Nếu con cháu chúng nó mà gây thù oán thì lẽ nào con cháu ta lại không thể trả thù ?

Sau, (Phạm) Mấn được tha tội chết, nhưng phải chịu án đi đày viễn xứ” (Đại Việt thông sử , Chư thần truyện))

Về vụ án Lê Ngân, sử cũ chép rằng:

“Mùa đông, tháng 12 (năm Định Tỵ, 1437 - NKT) có người tố giác rằng nhà Lê Ngân thường thờ Phật Quan âm cốt để cầu cho con gái được Vua yêu hơn. Nhà vua ra cửa Đông kinh thành, sai Thái giám là Đỗ Đại đem 50 võ sĩ đến nhà ông lục soát, bắt được tượng Phật và nhiều thứ vàng bạc, vải lụa. Hôm sau, Lê Ngân vào chầu, bỏ mũ để tạ tội. Vua sai bắt nô tì nhà ông ra tra hỏi.

Lê Ngân liền tâu rằng:

- Trước đây thần từng theo vua (Lê Thái Tổ) khởi nghĩa ở Lam Sơn. Nay tuổi già lắm bệnh, nghe thầy bói nói ngôi nhà thần ở, trước là nơi thờ Phật, vì làm cho ô uế nên mới sinh ra lắm yêu quái.  Muốn hết tai họa thì phải sửa lễ để cầu. Thần có người thiếp họ Nguyễn, đã bị thần đuổi đi, lại thêm người thiếp họ Trần vốn của Lê Sát được (triều đình) ban cho, cả hai người ấy đều thù ghét thần, thường cùng với bọn gia nô ương ngạnh, thêu dệt cho nên chuyện đó thôi. Xưa Tiên Đế (chỉ Lê Lợi - NKT) từng biết rõ lòng thần, thường ưu đãi và bao dung. Nay thần đã mỏi mệt, xin được về với ruộng vườn ở chốn quê nhà để sống nốt chút đời tàn. Nếu cứ nghe lời tả hữu mà tra tấn người nhà của thần, thì kẻ bị đòn đau tất nhiên sẽ khai lời sai sự thật, thì tấm thân của thần đây chắc cũng khó mà giữ được xin bệ hạ nghĩ lại cho.

Nhà vua không nghe. Hình quan chiều theo ý Vua, lại thêu dệt thêm cho thành án. Tờ xét tội trạng dâng lên, Vua bắt ông phải tự tử và sai tịch thu hết gia sản của ông” (Đại Việt thông sử, Chư thần truyện)).

Sử thần xưa cho là ông không đáng tội chết mà lại phải chịu chết, rất đáng thương. Mãi đến năm 1453, nhân kỳ đại xá, vua Lê Nhân Tông mới sai cấp cho con ông 100 mẫu ruộng để lo hương hỏa cho ông. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), vua Lê Thánh Tông truy tặng ông hàm Thái bảo, tước Hoằng Quốc công.